Lễ Kính Thánh Gioan Phaolô Đệ Nhị

22/10/2020
22 tháng 10
Thánh Gioan Phaolô Đệ Nhị
(1920 – 2005)
Phong Thánh Ngày 27-04-2014 Tại Roma

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II hay Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, tên khai sinh của Ngài là Karol Józef Wojtyła. Ngài sinh ngày 18 tháng 5 năm 1920 tại Wadowice, miền nam Ba Lan, cách Kraków 50 cây số. Ngài là vị Giáo Hoàng thứ 264 của Giáo Hội Công Giáo Rôma và là người lãnh đạo tối cao của Vatican kể từ ngày 16 tháng 10 năm 1978. Cho đến khi qua đời, triều đại của Ngài đã kéo dài hơn 26 năm và trở thành triều đại Giáo Hoàng dài thứ ba trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo, sau triều đại Giáo Hoàng của Thánh Phêrô trải dài 34 năm và triều đại Đức Giáo Hoàng Piô IX trải dài 32 năm. Cho đến hiện tại, Ngài là vị Giáo Hoàng duy nhất người Ba Lan và là Giáo Hoàng đầu tiên không phải người Ý trong gần 500 năm, kể từ Đức Giáo Hoàng Ađrianô VI vào năm 1520. Ngài được tạp chí TIME bình chọn là một trong bốn người có ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20. và cả những năm đầu thế kỷ 21.

Trong triều đại của mình, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II không ngừng mở rộng ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo trong Thế giới thứ ba. Ngài đã thực hiện rất nhiều chuyến tông du hơn 129 quốc gia, Ngài có thể nói được hơn 10 ngôn ngữ, ngoài tiếng Ba Lan còn có tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga và một chút tiếng Việt.

Trong suốt triều đại của mình, Ngài đã lên tiếng phản đối chiến tranh và kêu gọi hòa bình, phản đối chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản, chế độ độc tài, chủ nghĩa duy vật, các phương pháp phá thai, thuyết tương đối, chủ nghĩa tư bản và cách thức chết êm dịu. Đức Giáo Hoàng cũng được coi là một trong những nguồn lực dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Ba Lan và Đông Âu.

Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên công khai xin lỗi về những lỗi lầm của Giáo Hội trong quá khứ. Ngài cũng là vị Giáo Hoàng đầu tiên đứng ra hòa giải với Chính Thống Giáo Đông Phương, Do Thái Giáo và Anh giáo. Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên đứng ra tổ chức cuộc gặp gỡ với các lãnh đạo của các tôn giáo khác như Phật Giáo, Khổng Giáo, Chính Thống Giáo Đông Phương, Do Thái Giáo, Cao Đài và Hồi Giáo. Ngài còn là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến thăm một ngôi đền Hồi Giáo ở Syria, và là vị Giáo Hoàng đầu tiên tổ chức ra Ngày Giới Trẻ Thế Giới hằng năm, và cũng là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến thăm vùng Thánh Địa Jerusalem.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã được Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI phong là Đấng Đáng Kính vào ngày 19 tháng 12 năm 2009 và phong Chân Phước vào ngày 1 tháng 5 năm 2011. Mặc dù chưa chính thức được phong thánh nhưng vì Ngài là người sáng lập ra Đại hội Giới Trẻ Thế Giới nên Ngài được chọn là một trong những vị Thánh Quan Thầy bảo trợ cho ba kỳ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới liên tiếp tại Sydney năm 2008, Madrid năm 2011, và tại Rio de Janeiro năm 2013. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II sẽ được phong thánh vào ngày 27-4-2014 tại Roma.

ĐỜI TU SĨ.

Năm 1941, sau khi người cha qua đời, chàng thanh Karol Józef Wojtyła Karol đã dấn thân sâu hơn trong việc học triết học. Tại nhà Kydrynskis-một người bạn, nơi Karol Józef Wojtyła đã dọn đến và ở trong sáu tháng, iê n ta thường thấy Karol Józef Wojtyła nằm xoài ra sàn nhà cầu nguyện, tay dang ngang như hình Thánh Giá.

Vào mùa thu năm 1942, sau một cuộc thảo luận dài với cha giải tội Figlewicz, Wojtyla đến nhà riêng tổng Giám mục Sapieha và trình bày ước nguyện trở thành tu sĩ với vị Giám mục. Trước đó, Karol đã tới tu viện khổ hạnh dòng Carmelite ở Czerna với hy vọng được vào đây nhưng tu viện này đã bị Đức Quốc Xã đóng cửa. Mặc dù những người bạn đã cố gắng thuyết phục Karol Józef Wojtyła đừng rời bỏ sự nghiệp sân khấu, nhưng Karol vẫn quyết định theo con đường mình đã chọn.

Karol Józef Wojtyła bắt đầu lén lút học những môn của Chủng Viện Kraków, do Đức Hồng Y Adam Stefan Sapieha, lúc đó là Tổng Giám Mục Kraków, điều hành. Mỗi người được trao cho một vị giáo sư. Các lớp học được tổ chức ở nhà tu, nhà thờ và ở nhà riêng. Những chủng sinh này được yêu cầu không để những người quen biết về việc học tập của họ và bản thân những người này vẫn duy trì một nếp sống bên ngoài như bình thường. Trong thời gian này, Karol Józef Wojtyła đã đọc cuốn “Luận về sự hiến dâng hoàn toàn cho Đức Mẹ Đồng Trinh” của Thánh Louis Grignion de Montfort, và cuốn “Lý Thuyết Tự Nhiên” của Kazimierz Wars. Ngày 6 tháng 8 năm 1944, “Ngày Chúa Nhật Đen” khi hơn 8000 người đàn ông và các cậu bé đã bị quân đội Phát Xít bắt giam, rất may mắn Karol Józef Wojtyła đã không nằm trong số đó. Sau sự kiện này, Karol Józef Wojtyła vào ẩn trú trong dinh tổng Giám mục và không tiếp tục làm việc tại Solvay nữa. Ngày 13 tháng 11, Karol Józef Wojtyła chịu chức Cắt Tóc, một nghi lễ từ thời trung cổ, là biểu tượng của đời tận hiến cho Thiên Chúa.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Karol Józef Wojtyła trở về phân khoa Thần Học của Ðại Học Jagiellonia vừa được mở cửa lại. Tại đây, Karol Józef Wojtyła đã được bầu làm phó chủ tịch hội sinh viên. Trong thời gian này, Karol đã tập trung vào việc hoàn tất các chương trình nghiên cứu của năm 3 và năm 4. Từ tháng 4 năm 1945 cho tới tháng 8 năm 1946, Karol cũng làm việc ở cương vị phụ giáo.

Karol Józef Wojtyła cũng đệ đơn xin gia nhập tu viện Czera của dòng Carmelite đã được mở cửa trở lại. Tuy nhiên, Đức Tổng Giám Mục Sapieha đã kiên quyết từ chối việc cho phép Wojtyla gia nhập dòng tu.

ĐỜI LINH MỤC.

Thầy Karol Józef Wojtyła được thụ phong Linh Mục vào dịp Lễ Các Thánh ngày 1 tháng 11 năm 1946 sớm hơn sáu tháng so với các chủng sinh đồng khóa. Ngày hôm sau, tại Nhà Thờ lớn Wawel, Cha Karol đã cử hành Thánh Lễ đầu tiên. Sau đó không lâu, Đức Hồng Y Sapieha gửi Linh Mục Karol Wojtyla đi du học Roma, tại Ðại học của các Linh Mục Dòng Ða Minh Angelicum. Dưới sự hướng dẫn của Quý Linh Mục Dòng Ða Minh nổi tiếng là Garrigou Lagrange, Cha Karol Józef Wojtyła hoàn thành luận án tiến sĩ thần học về đề tài Ðức Tin trong các tác phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá vào năm 1948. Trong các kỳ nghỉ hè trong thời gian du học tại Roma, Cha Karol Józef Wojtyła thi hành mục vụ nơi các người Ba Lan di dân sống bên Pháp, Hoà Lan và Bỉ.

Sau khi hoàn tất học trình tiến sĩ trong thời gian du học ở Roma, tháng 7 năm 1948, Cha Karol Wojtyla được Đức Hồng Y Sapieha bổ nhiệm làm Linh Mục phụ tá Niegowic, một giáo xứ hẻo lánh thuộc vùng quê Galicia, cách Kraków 30 dặm.Mỗi buổi sáng, Cha Karol Wojtyla thức giấc lúc 5 giờ, dâng Thánh Lễ, điểm tâm rồi dùng xe ngựa di chuyển một vòng qua các khu trong giáo xứ, hướng dẫn giáo lý cho thiếu nhi và cử hành Thánh Lễ tại một khu xóm. Sau đó, Cha trở về nhà xứ ăn trưa, tiếp khách hoặc đi thăm viếng giáo dân. Những buổi chiều hoặc những cuối tuần rảnh rỗi Cha còn tự mình phụ giúp giáo dân địa phương những công việc lao động trong nhà.

Cũng trong thời gian làm phó xứ Niegowic, Cha Karol Józef Wojtyła đã cống hiến nhiều thì giờ cho giới trẻ tại đây. Ngài hướng dẫn họ trình diễn trên sân khấu, giúp họ học thêm để bồi bổ kiến thức, tổ chức những buổi cắm trại trong rừng hoặc những chuyến du ngoạn trong các khu lân cận thuộc giáo phận Krakow, thành lập các đội bóng chuyền và túc cầu cho thanh thiếu niên trong vùng.

Tháng 3 năm 1949, Đức Hồng Y Sapieha thuyên chuyển Cha về làm việc tại một trường của Ðại Học Kraków thuộc giáo xứ Saint Florian. Cha tiếp tục trau dồi triết và thần học tại Ðại Học Công Giáo Lublin. Tại đây, Cha có cơ hội tìm hiểu thêm về giới trẻ, đồng thời khai triển những phương pháp mục vụ trong khi tiếp xúc với đời sống văn hóa cùng các thức giả tại tổng giáo phận Kraków. Cũng tại nơi đây, Cha Karol Józef Wojtyła còn có dịp tiếp tục triển khai những kiến thức về văn chương và triết học của mình.

Cha thường đưa những sinh viên đi cắm trại và du ngoại ngoài trời để hòa mình vào thiên nhiên. Chính nhờ những sinh hoạt với giới sinh viên trong thời gian ở giáo xứ Saint Florian, mà sau này khi được cử làm Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Krakow, Cha Karol Józef Wojtyła đã hoàn tất những tác phẩm nói lên mối liên hệ phái tính theo tinh thần Kitô giáo mà tiêu biểu là: The Jeweler’s Shop-Tiệm Nữ Trang, Love And Responsibility-Tình Yêu Và Trách Nhiệm.

Năm 1953, Cha Karol Józef Wojtyła trình bày một luận án với đề tài “Thẩm định khả thể xây dựng nền luân lý Công Giáo trên hệ thống luân lý của Max Scheler” tại Ðại Học Lublin. Sau đó, Cha trở thành giáo sư thần học luân lý và luân lý xã hội tại Ðại Chủng Viện Kraków và tại phân khoa thần học của Ðại Học Công Giáo Lublin.

Tháng 10 năm 1954, phân khoa Thần học tại Đại học Jagiellonian, nơi Cha đang giảng dạy môn luân lý Kitô Giáo, bị đóng cửa. Lúc ấy Cha Karol Józef Wojtyła thường cùng một nhóm giáo sư bí mật gặp gỡ để trao đổi quan điểm về mối liên hệ giữa nhà nước và Giáo Hội.

ĐỜI GIÁM MỤC THA THIẾT VỚI CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II.

Vào ngày 4 tháng 7 năm 1958, Cha Karol Józef Wojtyła được Đức Giáo Hoàng Piô XII bổ nhiệm làm Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Kraków. Nửa giờ sau cuộc gặp với Đức Hồng Y Wyszynski và nhận sự đề cử làm Giám Mục Phụ Tá, vị Linh Mục trẻ Karol Józef Wojtyła tìm tới tu viện của các nữ tu áo xám Ursuline bên bờ sông Vistula. Ngài đã cầu nguyện liên tục suốt trong 8 tiếng đồng hồ liên tiếp trước khi rời tu viện Ursuline.

Ngày 28 tháng 9 năm 1958, Ngài được tấn phong Giám Mục tại Nhà Thờ lớn Wawel ở Kraków, 11 ngày trước khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời. Một tháng sau, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lên kế vị, mở ra một kỷ nguyên mới cho Giáo Hội Công Giáo qua quyết định triệu tập Công Đồng Vatican II. Vị tân Giám Mục 38 tuổi nhận được giấy mời tham dự Công Đồng.

Tại đây, Ngài đã có sự đóng góp tích cực và hữu hiệu vào chương trình của Công Đồng với bảy diễn từ đọc trước các Nghị Phụ tham dự Công Đồng và với 13 tuyên ngôn, Đức Giám Mục Karol Józef Wojtyła đã gây được một ấn tượng sâu sắc đối với hầu hết các thành phần tham dự Công Đồng. Đặc biệt là Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, và nhất là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI sau đó.

Vào ngày 30 tháng 12 năm 1963, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đề bạt Ngài làm Tổng Giám Mục Kraków. Trong cương vị Tổng Giám Mục, Ngài tham dự Công Đồng Vatican II, góp công soạn thảo các tài liệu Tuyên Ngôn Về Tự Do Tôn Giáo, Dignitatis Humanae, và Hiến Chế Mục Vụ Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Gaudium et Spes-Vui mừng và Hy vọng. Đây là hai văn bản có tính cách lịch sử và quan trọng nhất của Công Đồng này.

Tháng 5 năm 1964, Đức Giám Mục Karol Józef Wojtyła đã đệ trình đoàn chủ tịch Công Đồng 1 văn bản được soạn thảo nhân danh các Giám Mục Ba Lan tuyên bố nói lên mối quan hệ của Giáo Hội với thế giới hiện đại phải được dựa trên khái niệm xác nhận Giáo Hội là một xã hội hoàn thiện do Thiên Chúa sáng lập và ở bên trên lịch sử. Ngày 30 tháng 11 năm 1964, Ngài đã có cuộc nói chuyện riêng đầu tiên với Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, người đã theo dõi chặt chẽ các phát biểu của vị Giám Mục mới này.

ĐỜI HỒNG Y CỦA NGÀI TẠI GIÁO TRIỀU ROMA.

Trong năm 1967, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI phong Ngài làm Hồng Y. Ngài cũng đồng thời được bổ nhiệm vào bốn Thánh Bộ của Vatican: Thánh Bộ Giáo Sĩ, Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo, Thánh Bộ Nghi Lễ, Thánh Bộ Các Giáo Hội Đông Phương và làm cố vấn cho Hội Đồng về thế tục.

Vào mùa Giáng Sinh năm 1970, khi tình hình Ba Lan căng thẳng, giá thực phẩm leo thang, trong bài thuyết giảng nhân lễ Giáng Sinh tại Kraków năm ấy, Ngài nói: “Khi người dân bị thương tích và khổ đau, Giáo Hội phải lên tiếng bênh đỡ không vì bất cứ khuynh hướng chính trị nào mà chỉ vì tình yêu và tình liên đới của những người con Thiên Chúa.”

Thời gian này Ngài cũng làm việc với nhóm tín hữu trí thức dấn thân có tên là Odrodzenie-Tái Sinh, tổ chức Công Giáo đấu tranh duy nhất đặt dưới sự bảo trợ của Đức Hồng Y Wyszynski. Ngài cũng có những cuộc gặp gỡ giới trí thức để cùng nhau trao đổi quan điểm. Tại tư dinh, Ngài không chỉ gặp gỡ các chủ biên của tờ Tygodnik Powszechny mà còn tiếp xúc với các sử gia, các nhà toán học, các khoa học gia, triết gia, các văn gia, nhạc sĩ, kể cả các nghệ sĩ trình diễn. Ngài bàn hỏi họ về những vấn đề của Ba Lan, của nhân loại và cả những vấn đề thuộc thế giới bên kia, thế giới siêu hình.”

Vào năm 1972, Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła cũng bắt đầu một mối quan hệ với Anna Teresa Tymieniecka, một phụ nữ Ba Lan đang làm việc tại Đại Học Havard. Bà đã giúp Ngài trở nên nổi bật, giới thiệu Ngài với cộng đồng triết học Châu Âu, với các học giả Mỹ. Bà đã giúp vạch kế hoạch cho chuyến thăm kéo dài đầu tiên của Ngài tới Mỹ, và thu xếp để Ngài có bài giảng đầu tiên tại Đại Học Harvard.

Trong khoảng thời gian từ 1973 đến 1975, Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła đã vào phòng đặc biệt của Giáo Hoàng để nói chuyện riêng 11 lần. Vào năm 1976, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã mời Ngài cử hành Thánh Lễ Mùa Chay tại Vatican cho các thành viên của Tòa Thánh. Cũng trong năm này, tờ “Thời Báo New York” đã đặt Ngài vào danh sách 10 người được nhắc tới nhiều nhất như là các ứng cử viên để kế vị Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.

Vào tháng 8 năm 1978, sau khi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI qua đời, Ngài đã tham gia Hồng Y Đoàn chọn Đức Hồng Y Albino Luciani, Hồng Y Tổng Giám Mục của Venezia lên ngôi Giáo Hoàng với danh xưng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I. Khi được chọn làm Giáo Hoàng, Đức Hồng Y Albino Luciani với số tuổi 65 tuổi, trẻ hơn so với nhiều vị Giáo Hoàng khác. Vào ngày 28 tháng 9 năm 1978, chỉ 33 ngày sau khi nhậm chức, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I qua đời. Vào tháng 10 năm 1978, Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła trở về lại Tòa Thánh để bầu Giáo Hoàng mới.

Đời Giáo Hoàng của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II.

Lúc 16:30 ngày thứ bảy 14 tháng 10 năm 1978, sau khi cử hành Thánh Lễ kính Chúa Thánh Thần tại Ðền Thờ Thánh Phêrô vào ban sáng, 111 Đức Hồng Y từ khắp thế giới bước vào Cơ Mật Viện, để bầu Giáo Hoàng mới. Hôm sau các Đức Hồng Y bắt đầu bỏ phiếu: ban sáng hai lần, ban chiều hai lần. Bốn lần bỏ phiếu ngày 15 tháng 10/1978, không có kết quả nào cụ thể.

Sáng thứ hai 16 tháng 10 năm 1978, với hai lần bỏ phiếu, các Đức Hồng Y vẫn chưa chọn được Vị Giáo Hoàng mới. Tên của Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła đã nhận được nhiều phiếu hơn cả vào lúc 17:30 tối, trong cuộc bỏ phiếu lần thứ sáu, vào chiều ngày 16 tháng 10 năm 1978. Sau khi kiểm xong các lá phiếu, Vị Hồng Y nhiếp chính lại gần Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła được chọn, chào kính, đặt câu hỏi theo lễ nghi: “Ngài có chấp nhận việc lựa chọn Ngài hay không?” Trong cầu nguyện và yên lặng suy tư, Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła chưa trả lời ngay. Mọi người chờ đợi và thấy Ngài cảm động, nước mắt chảy trên gò má. Sau cùng, với giọng rõ ràng và nghiêm nghị, Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła trả lời: “Vì Chúa Kitô của tôi, vì Ðức Trinh Nữ, Mẹ của tôi, vì tôn trọng Tông Hiến của Ðức Phaolô VI mời gọi, tôi xin chấp nhận.”

6 giờ 18 phút, Đức Hồng Y Phó Tế Tisserant tuyên bố: “Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Hồng Y Đoàn đã tín nhiệm Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła, Tổng Giám Mục Kraków, Ba Lan, vào ngôi vị Giáo Hoàng của thế giới Công Giáo”. Ngài đã được bầu để kế vị Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I, trở thành vị Giáo Hoàng từ ngoài nước Ý đầu tiên trong gần 500 năm và là vị Giáo Hoàng gốc người Slav đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo.

Đức Tân Giáo Hoàng giơ tay chào dân chúng. Trước khi ban phép lành Urbi et Orbi, Ngài mở đầu: “Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô”, lời chào người dân Công Giáo Ý rất ưa chuộng. Ngài nói tiếp:

“Chúng ta còn đang đau buồn về cái chết của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhất. Và lúc này đây các Vị Hồng Y đáng kính đã chọn một Vị Giám Mục mới của Roma. Các ngài đã chọn một vị đến từ một xứ sở xa xôi, xa xôi, nhưng luôn luôn gần gũi bởi sự hiệp thông đức tin và trong truyền thống Kitô. Tôi run sợ trong khi lãnh nhận việc lựa chọn này, nhưng tôi đã chấp nhận trong tinh thần phục tùng Chúa chúng ta Ðức Giêsu Kitô và trong tinh thần phó thác hoàn toàn cho Mẹ Người, Ðức Trinh Nữ Maria.

Tôi không biết tôi có thể biểu lộ rõ ràng bằng tiếng nói của anh chị em không… bằng tiếng Ý của chúng ta không”, lại một tràng pháo tay dài nữa của dân chúng. Mối thiện cảm giữa Đức Giáo Hoàng mới và dân chúng gia tăng thêm mãi. “Nếu tôi nói sai, anh chị em sửa lại cho tôi. Và giờ đây hiện diện trước mọi người để tuyên xưng đức tin chung của chúng ta, đức cậy và lòng tín nhiệm của chúng ta nơi Mẹ Chúa Kitô và Mẹ Giáo Hội và cũng để bắt đầu lại trên con đường của lịch sử và của Giáo Hội với sự giúp đỡ của Thiên Chúa và của toàn thể Giáo Hội.”

Như vị Giáo hoàng tiền nhiệm, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đơn giản hóa chức vụ này và làm giảm bớt tính huy hoàng quyền thế. Ngài không tự xưng là “chúng tôi” như các Vị Giáo Hoàng trước; thay vào đó Ngài dùng từ ngữ “tôi”. Ngài chọn làm một lễ tấn phong đơn giản chứ không rườm rà, và Ngài chưa đội mũ Giáo Hoàng trước khi lễ tấn phong. Ngài làm thế để nhấn mạnh đến chức vụ hầu hạ của mình là tôi tớ của những người tôi tớ của Chúa-Servus Servorum Dei.

Sáng ngày 17 tháng 10, Ngài đã trình bày con đường của Ngài: trung thành với Công Đồng và các hội đoàn. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kiên quyết khẳng định việc phải tuân thủ lời răn dạy của Giáo Hoàng, tôn trọng các luật lệ về nghi lễ cũng như về kỷ luật. Sau cùng, Ngài nhấn mạnh đến nhu cầu tiến hành cuộc đối thoại trên phạm vi toàn thế giời và cam kết của Giáo Hội với hòa bình và công lý trên thế giới.

Trích từ Sống Tin Mừng Tình Yêu

Thánh Gioan Phaolô Đệ Nhị

Trong suốt 26 năm trị vì Giáo Hội, Ngài đã đi đến 129 quốc gia và lãnh thổ để cổ võ nền hòa bình, dân chủ, và xoa dịu nỗi thống khổ của những người thấp cổ bé miệng và đói khổ lầm than. Ngài đã đến Phi Luật Tân vào năm 1981 và đến thăm người Việt tỵ nạn tại Bataan; đã bảo lãnh cho gia đình ông Nguyễn Văn Thạnh sang định cư tại nước thứ ba để làm gương cho thế giới đón tiếp thuyền nhân Việt Nam vào đầu thập niên 1980.
Trong cuộc thăm viếng Phi Luật Tân, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaol II đã có một Thông Điệp cho toàn thể người dân Philipine. Chính thông điệp của Ngài đã khuyến khích Đức Hồng Y Jaime Sin, lúc đó là Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Manila kêu gọi những cuộc biểu tình rộng lớn khắp nước, để 5 năm sau kết thúc sự cai trị của nhà độc tài Ferdinand Marcos. Hơn thế nữa, Đức Gioan Phaolo Đệ Nhị, cố Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan và lãnh tụ Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan Lech Walesa là ba vị đã có công trong biến cố Ba Lan năm 1989 đưa đến sự sụp đổ của Khối Cộng Sản Đông Âu và kéo theo sự sụp đổ của bức tường Bá Linh năm 1989 và Khối Cộng sản Sô Viết tan rã mà nhiều người cho là một phép lạ.

Sinh trưởng trong một gia đình Công Giáo ngoan đạo tại Wadowice, Ba Lan vào ngày 18/5/1920, với tên khai sinh là Karol Josef Wojtyla; Ngài mồ côi mẹ khi mới lên 8 tuổi. Người cha một mình nuôi con và qua đời năm 1941 khi Ngài vừa 21 tuổi. Trước ngày lìa đời, ông bố dặn dò con: “Trước khi chết, Ta muốn con cam kết phục vụ Chúa”.

Và Ngài đã cố gắng thực hiện lời trăn trối của người cha. Trong thời gian Đức Quốc Xã chiếm đóng Ba Lan, ngài vào ẩn náu tại Tòa Tổng Giám Mục Krakow bí mật học Thần Học vì đã là chủng sinh . Năm 37 tuổi đậu Tiến Sĩ Thần Học tại Đại Học Fresing và Đại Học Munich, sau làm giáo sư về môn Đạo Đức học tại Đại Học Freising. Chiến tranh kết thúc, ngài được lãnh chức Linh Mục, rồi Giám Mục và Tổng Giám Mục Krakow khi mới 43 tuổi.
Năm 1967, ngài được tấn phong Hồng Y. Và tháng 10 năm 1978 được Hồng Y Đoàn bầu làm Giáo Hoàng thứ 264 lúc mới 58 tuổi, Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên không phải là người Ý suốt 455 năm lịch sử Giáo Hội Công Giáo. Đức Giáo Hoàng lấy tên thánh là Gioan Phalo II. Ngài là vị Giáo Hoàng trị vì 26 năm, lâu hàng thứ 3 sau Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội (35 năm) và vị Giáo Hoàng Blessed Pius IX (32 năm) và nói được 8 ngôn ngữ khác nhau.

Sau khi lên ngôi Giáo Hoàng, Ngài đã về thăm quê hương Ba Lan của Ngài vào tháng 6 năm 1979 đang khi đất nước bị Đảng Cộng Sản cai trị. Cuộc thăm viếng Ba Lan của Ngài đã huy động được hơn 6 triệu người mạnh mẽ đòi tự do, đòi công lý và thúc đẩy chính giới Hoa Kỳ cộng tác chặt chẽ với Vatican để giật sập chế độ cộng sản. Vì thế, Cộng Sản đã dùng thủ đoạn ám sát Ngài tại công trường Thánh Phêrô vào năm 1981 qua tay khủng bố Melmet Ali Agca người Thổ Nhĩ Kỳ.

Khi bị bắt tện này khai hoạt động cho tình báo cộng sản Bảo Gia Lợi. Nhưng vào tháng 12 năm 1983 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã vào nhà tù thăm và tha tội cho Mehmet Ali Agca. Về mặt tôn giáo, Đức Gioan Phaolo II có chủ trương chống việc phá thai và việc lập gia đình của các linh mục. Trong 26 năm trên ngôi Giáo Hoàng, Đức Thánh Cha Gioan Phalo II đã phong chức cho 114 vị Hồng Y. Tiếp xúc với hàng trăm yếu nhân trên thế giới, và đặc biệt tiếp kiến nữ tu Lucia dos Santos, một trong ba trẻ chăn cừu đã được tận mặt thấy Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha năm 1917, và nói chuyện với Mẹ Teresa thành Calcutta, Ấn Độ.
Di sản của Đức Thánh Cha Gioan PhaloII thật vĩ đại. Đến nay người dân Ba Lan vẫn còn nhớ lời Ngài căn dặn “Đừng Sợ”, và chính vì không còn sợ hãi chế độ cộng sản độc tài, người dân đã đồng lòng chấp nhận hy sinh để đi đến thắng lợi. Người dân Philipine cũng không quên những lời hiệu triệu của Ngài mà đứng lên lật đổ chế độ độc tài Ferdinand Marcos. Đức Thánh Cha cũng muốn qua thăm Việt Nam, nhưng nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam không chấp nhận với lý do lo sợ sẽ là một Ba Lan thứ hai.

Sau một thời gian bị bệnh, Đức Thánh Cha Gioan Phalo II đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 9 giờ 37 phút giờ La Mã, tức 19 giờ 37 phút theo giờ quốc tế ngày 2 tháng Tư năm 2005.Thánh lễ an táng của Ngài được các hãng thông tấn quốc tế xác nhận là một lễ an táng long trọng và lớn nhất thế kỷ với hàng trăm nguyên thủ các quốc gia, Ngoại giao đoàn, trong đó Hoa Kỳ có đương kim Tổng Thống lúc bấy giờ là George Bush và phu nhân, Tổng Thống Busch bố, Tổng Thống Bill Clinton và Ngoại Trưởng Rice.
Ngay sau khi tin Đức Thánh Cha Gioan Phalo II băng hà, nhiều vị lãnh đạo các quốc gia, các vị lãnh đạo tôn giáo đều gửi điện phân ưu. Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ do Hòa Thượng Thích Mãn Giác làm Chủ Tịch cũng gửi điện cho Đức Hồng Y Roger Michael Mahony, trong đó có đoạn viết: “Chúng tôi rất xúc động khi hay tin Đức Giáo Hoàng Gioan Phalô đệ nhị, người chúng tôi hằng kính mến, đã dìu dắt Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ, như một kế vị của Thánh Phêrô trong 27 năm nay, đã hoàn tất cuộc hành trình của một sứ giả tinh thần đã trở về Vương Quốc. Đời sống của Đức Thánh Cha là một thông điệp về tình yêu và hòa bình, không những cho những ai tin vào Đấng Thượng Đế, mà còn cho người tin vào những truyền thống tốt đẹp khác. Ngài là hình ảnh chính của sự Hiệp Nhất.”

Đến tham dự Lễ Tưởng Niệm do Cộng Đồng Công Giáo VN Giáo Phận Orang tổ chức vào tối Thứ Bảy ngày 2 tháng 4, 2005, các vị trong Hội Đồng Liên Tôn đã chia sẻ như sau: Hòa Thượng Thích Chơn Thành nói: “ Đức Giáo Hoàng đã đạt đủ ba yếu tố Bi, Trí, Dũng để trở thành vị Bồ Tát. Ngài đã cống hiến cho nhân loại những cánh hoa tuyệt đẹp” Giáo sư Nguyễn Thành Long (PG Hòa Hảo) khẳng định: “Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là một vĩ nhân của thế kỷ..Chính Ngài đã đề xướng ra Hội Đồng Liên Tôn Thế Giới để đoàn kết, đối thoại và tôn trọng sự bình đẳng giữa các tôn giáo.”

Tưởng Niệm ngày mất của Chân Phước Gioan Phaolô II, chúng ta cầu mong mọi người dân Việt trong nước ghi nhớ lời Ngài căn dặn dân tộc Ba Lan “Đừng Sợ”, và sốt sắng cầu nguyện, xin Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bầu cử để quê hương đất nước Việt Nam chúng ta sớm thoát khỏi sự cai trị của chế độ Cộng sản như dân tộc Ba Lan và các quốc gia Đông Âu.

Trích từ báo Viễn Đông ( Tưởng niệm 12 năm ngày Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II băng hà)

Comments are closed.