Tài Liệu Học Hỏi Năm Đức Tin

Năm Đức Tin

NamDucTin

Radiovaticana 2012-09-10 13:44:59 – Phỏng vấn Đức Hồng Y Philippe Barbarin, Tổng Giám Mục Lyon

Ngày 11 tháng 10 tới đây Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ chủ sự thánh lễ khai mạc Năm Đức Tin nhân kỷ niệm đúng 50 năm khai mở Công Đồng Chung Vaticăng II và 20 năm công bố sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo.

Năm Đức Tin là dịp để tín hữu công giáo toàn thế giới học hỏi, tìm hiểu, đào sâu và sống đức tin một cách ý thức xác tín và sâu đậm hơn. Riêng đối với các dân tộc có nguồn gốc Kitô kỳ cựu nhưng đã xa rời, đánh mất hay chối bỏ đức tin, đây là cơ may tìm về với gia tài tinh thần của mình.

Khi nhìn vào tình hình sống đạo tại các nước Âu châu, người ta không chỉ ghi nhận các hậu qủa tiêu cực của nạn tục hóa gia tăng làm suy yếu cuộc sống của các Giáo Hội: tín hữu không sống đạo nữa, ơn gọi giáo sĩ tu sĩ khan hiếm, các linh mục già nua chết đi mà không có người thay thế, số giáo xứ không có linh mục coi sóc ngày càng gia tăng. Tại một vài nước đã có lịch sử truyền giáo oai hùng như Hòa Lan, từ mấy thập niên qua Giáo Hội đã phải bán đi hàng trăm nhà thờ, vì tín hữu không sống đạo, cũng không có linh mục coi sóc và Giáo Hội không có khả năng tài chính để duy trì các cơ sở ấy.

Nước Pháp xưa kia được mệnh danh là “Trưởng nữ của Giáo Hội” cũng đã bị tục hóa thê thảm. Trong các thập niên 1960-1990 Giáo Hội tại Pháp đã phải đương đầu với các nỗ lực nhổ rễ Kitô giáo, dưới ảnh hưởng của chủ thuyết mác xít vô thần lan tràn, mê hoặc và khuynh đảo thế giới đại học và thế giới truyền thông, tạo ra các thành phần trí thức thiên tả quảng bá và phục vụ không công cho chủ thuyết cộng sản vô thần, trong đó cũng có một số giáo sĩ tu sĩ của Giáo Hội, mệnh danh là các “thành phần cấp tiến”.

Nhưng sau khi chế độ cộng sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ tan tành cách đây 20 năm, Giáo Hội Pháp cũng như các Giáo Hội Âu châu lại phải đương đầu với trào lựu tục hóa và duy đời cực đoan, lấy cớ luật tách rời Giáo Hội và Nhà Nước, muốn gạt bỏ Giáo Hội ra khỏi cuộc sống xã hội, và bịt miệng không cho Giáo Hôi lên tiếng về các vấn đề liên quan tới các quyền con người, đặc biệt là quyền bảo vệ luân lý đạo đức.

Xem ra là điều không thể tin được, nhưng sự thật là Kitô giáo hiện nay lại bị bài bác, kỳ thị, hạn chế và bách hại bởi luật lệ của chính quyền các nước tây âu có nền văn hóa Kitô. Người ta đi đến chỗ cấm treo, trưng bầy và đặt để các Thánh Giá và tượng ảnh tại các nơi công cộng.

Riêng đối với Giáo Hội Pháp, trong các thời gian qua người ta vui mừng ghi nhận sự hiện diện của nhiều tín hữu công giáo sống đạo xác tín trong nhiều lãnh vực và cơ cấu xã hội: từ Hàn lâm viện Pháp, cho tới Hàn lâm viện Goncourt; từ lãnh vực kịch nghệ cho tới lãnh vực phim ảnh và âm nhạc; từ ]ãnh vực ấn loát với các nguyệt san và nhật báo cho tới các hiệp hội và tổ chức bác ái xã hội. Riêng trong lãnh vực ơn gọi và mục vụ hiện có hàng trăm linh mục và chủng sinh đến từ các nước Phi châu nói tiếng Pháp hay từ Ba Lan dấn thân làm việc trong các giáo xứ không có linh mục Pháp nữa.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Hồng Y Philip Barbarrin, Tổng Giám Mục Lyon, về ý nghĩa Năm Đức Tin đối với Giáo Hội tại Pháp. Đức Hồng Y Barbarin nổi tiếng về dấn thân đối thoại đại kết và liên tôn, cũng như về các can thiệp trong lãnh vực quốc tế. Hồi thượng tuần tháng 8 vừa qua Đức Hồng Y đã cảnh cáo giới lãnh đạo chính trị Pháp, khi khẳng định rằng chính quyền “Không được làm sai lạc bản chất của hôn nhân”.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Năm Đức Tin có ý nghĩa gì đối với Giáo Hội Pháp, là một Giáo Hội Kitô kỳ cựu, nhưng trong nhiều thập niên qua đã suy yếu rất nhiều và bị tục hóa nặng nề?

Đáp: Năm Đức Tin là một món qùa rất đẹp đối với nước Pháp và toàn thể Giáo Hội. Chúng ta đã sống một Năm Linh Mục ngoại thường, với cảm tưởng là tại Lyon có được một năm như ở ngoại ô thành Ars. Năm Đức Tin sẽ cho phép chúng tôi đào sâu Kinh Tin Kính và hiểu biết Giáo Lý của Giáo Hội công giáo một cách tốt đẹp hơn. Đó đã là điều Đức Thánh Cha đã muốn làm với giới trẻ trong Ngày Quốc Tế giới Trẻ tại Madrid, bằng cách cống hiến cho họ trang mạng Youcat.

Hỏi: Ngày nay câu nói cổ điển “Nước Pháp, trưởng nữ của Giáo Hội” có nghĩa là gì?

Đáp: Điều này nhắc lại một lịch sử rất phong phú chúng tôi phải nhớ lại và cảm tạ Thiên Chúa về lịch sử ấy. Nhưng chúng tôi cũng phải chú ý đừng để cho qúa khứ xâm lấn, cho đù nó có tuyệt vời thế nào đi nữa. Chúa chờ đợi chúng ta trong giây phút hiện tại này và trong tương lai. Chẳng hạn Giáo Hội tại Lyon nhớ lại các vị tử đạo của mình hồi thế kỷ thứ II, các vị đã trở thành suối nguồn của việc rao truyền Tin Mừng cho vùng Gallia và miền Bắc Âu châu. Nhưng chúng ta cũng nhớ rằng từ tử đạo trong tiếng Hy lạp có nghĩa là làm chứng. Điểm khởi đầu gây ấn tượng ấy của Giáo Hội chúng tôi dẫn đưa chúng tôi tới chỗ đặt ra một câu hỏi nòng cốt: “Chúng tôi có là những người phục vụ và làm chứng cho Chúa không?”

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, làm sao diễn tả được lòng hăng say truyền giáo của Giáo Hội trong những cách thức hùng hồn nhất?

Đáp: Tại Pháp chúng tôi có rất nhiều may mắn. Có những người ngoại quốc bầy tỏ với tôi lòng khâm phục trước các sáng kiến đa diện và mạnh mẽ của công tác tái truyền giảng Tin Mừng. Chúng tôi có các trường thần học và các phong trào tinh thần sinh động và rất táo bạo. Chỉ cần nghĩ tới trung tâm nghiên cứu mới tại Notre Dame de Vie ở Venasque, hay trung tâm của phân khoa Notre Dame de Paris, hay sự tái sinh của các tu sĩ dòng Đa Minh ở Toulouse. Chúng tôi biết có sự phát triển gây ấn tượng của các cộng đoàn mới, như các cộng đoàn bên Brasil. Một vài cộng đoàn chẳng hạn như cộng đoàn Emmanuel và Con đường mới đã có khoảng 40 năm kinh nghiệm. Cũng có thể nhắc tới rất nhiều hoạt động canh tân truyền giáo qua âm nhạc và các buổi hòa nhạc, hay các địa chỉ truyền giáo trên mạng. Trong giáo phận của tôi, chúng tôi đang sống một kinh nghiệm đẹp gọi là “Các phòng thí nghiệm đức tin”, theo lời mời gọi của Đức Gioan Phaolô II trong Năm Thánh 2000.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, đâu đã là các khó khăn chính mà Giáo Hội tại Pháp gặp phải hiện nay?

Đáp: Trong một nghĩa nào đó, chúng tôi rất nghèo nàn, bởi vì đã có nhiều phần bị sụp đổ: nhiều đan viện và chủng viện đã đóng cửa. Hàng giáo sĩ già nua, và điều này gây khổ đau cho Giáo Hội, và đôi khi còn có sự bất ổn trnog các cộng đoàn của chúng tôi nữa. Hằng năm tại Lyon tôi truyền chức Linh Mục cho hai, ba tân linh mục, trong khi có khoảng 20 linh mục già qua đời. Đồng thời chúng tôi cũng nhận thấy có một sự năng động đích thật, một sức sinh động gây kinh ngạc. Tôi không muốn là một người lạc quan khờ khạo, cũng không muốn là một người bi quan tối tăm. Có những tình hình báo động trong nhiều giáo phận, nhưng cũng có các lực lượng canh tân tại khắp mọi nơi.

Hỏi: Sự hiện diện và lời nói của các tín hữu công giáo có là một thách đố trong xã hội hay không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Chúng tôi có tự do ngôn luận và bổn phận phải lên tiếng, phải bầy tỏ vì thiện ích của xã hội, nhất là trong giai đoạn nghi ngờ đối với tương lai của nền văn minh của chúng tôi. Đôi khi tôi có cảm tưởng rằng nền dân chủ của chúng ta đang chặt đi cái cây, trong đó nó sinh sống. Tại Pháp chúng tôi đã thấy quyền bính mất đầu, khi nó đã trở thành một “nền quân chủ tuyệt đối” và bắt đầu nói tới một “ông vua mặt trời”. Tôi hy vọng rằng chúng tôi sẽ không bước vào kỷ nguyên của một “nền dân chủ tuyệt đối”, và quên rằng mọi hình thức quyền bính được làm ra trước hết là để phục vụ. Người ta thường nói rằng nền dân chủ là “chế độ ít tàn ác hơn”. Khi tìm cách lắng nghe và tôn trọng thiện ích của tất cả mọi người, một quốc hội phải bỏ phiếu một luật tài chánh và làm luật. Nhưng nếu người ta tự ý chiếm lấy quyền thay đổi các nền tảng của xã hội, nghĩa là nếu người ta coi mình là Thiên Chúa Tốt Lành, thì khi đó chúng ta đang gặp nguy hiểm. Cả một quốc hôi cũng có thể dẫn đưa một quốc gia tới ngõ cụt. Thật luôn luôn khó mà khiêm nhường, khi có quyền bính trong tay.

Hỏi: Người ta thường tái đưa ra cuộc thảo luận về tính cách đời, nhưng có phải nó che dấu các nứt rạn sâu xa không, thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Nước Pháp sống các hậu qủa của một cuộc xung đột cũ. Với luật tách rời năm 1905 Nhà Nước dấn thân bảo đảm tự do phụng tự và giao cho các tín hữu trách nhiệm tài trợ Giáo Hội. Điều này trao ban vinh dự cho các tín hữu công giáo. Việc đào tạo một chủng sinh tốn kém 20.000 Euro một năm. Vấn đề đó là đàng sau từ “tính cách đời” thường dấu ẩn một sư thù ghét tôn giáo. Vì thế, một nền cộng hòa đời thì chấp nhận được, nhưng một não trạng duy đời thì không chấp nhận được. Nguyên tổng thống Pháp đã thăng tiến một “tính cách đời tích cực”, và điều này là bằng chứng nó không phải như thế một cách tự phát. Theo nguyên tắc, từ này không cần đòi hỏi các tính từ. Nhưng trên thực tế, nước Pháp vẫn còn bị phân chia giữa hai trào lưu: tôn trọng tôn giáo hay tiêu diệt tôn giáo.

(Avvenire 25-8-2012)

Linh Tién Khải

TÓM LƯỢC TÔNG THƯ CÁNH CỬA ĐỨC TIN.

giaophanphucuong.org

Bài của Đức Cha Hervé Giraud, Giám mục Soissons, Laon et Saint-Quentin

Ngày 11/10/2011, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 đã viết trong Tông thư Porta Fidei, “Cánh Cửa Đức Tin”, để công bố một Năm Đức Tin, sẽ bắt đầu ngày 11 tháng 10 năm 2012 (50 năm sau ngày khai mạc Công Đồng Vaticanô II và 20 năm sau ngày ban hành Sách Giáo Lý của Hội thánh Công giáo). Năm Đức Tin sẽ kết thúc vào Lễ Chúa Kitô vua vũ trụ, ngày 24 tháng 11, năm 2013. Đức Giáo hoàng có ý định nhấn mạnh “sức mạnh và vẻ đẹp của đức tin”, ân huệ của Công Đồng Vaticanô II và sự đóng góp quan trọng của Sách Giáo Lý của Hội thánh Công giáo và “Tân Tin Mừng hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo” (đề tài của Đại hội Thượng Hội đồng Giám mục vào tháng 10 năm 2012).

Như thế, sau hai Thông điệp của ngài về Đức ái (Caritas in Veritate, 25.12.2005) và Đức cậy (Spe salvi, 30.11.2007), ở đây Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đưa ra một bản văn sâu đậm về đức tin.

Tựa đề “Cánh cửa Đức tin” xác định rằng, nhân đức đối thần đầu tiên không chỉ là một niềm tin đơn thuần, cũng không chỉ là một ân huệ đi theo Phép rửa, nhưng còn là nguồn mạch cho một hành trình kéo dài suốt đời. Tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ mở ra một con đường “làm sáng tỏ ngày sàng hiển nhiên hơn niềm vui và lòng nhiệt thành mới mẻ của cuộc gặp gỡ với Đức Kitô”.

Trước tiên, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh, những thay đổi văn hóa của thời đại đỏi hỏi cần ý thức, hoán cải và canh tân đức tin. Chúng ta không thể “nghĩ đức tin như một điều giả thiết hiển nhiên của cuộc sống chung” nữa. Nếp sống văn hóa thuần nhất đã không còn hiện diện trong các lĩnh vực quan trọng của xã hội: “Những nội dung cốt yếu từ nhiều thế kỷ đã là di sản của mọi tín hữu, đang cần được củng cố, hiểu biết và đào sâu một cách ngày càng mới mẻ, để nêu chứng tá gắn liền với những điều kiện lịch sử khác nhau của quá khứ (CCĐT, 4).

Như vậy, theo Đức Bênêđíctô XVI, tất cả cần trợ giúp cho mọi cơ chế Giáo hội suy tư và tái khám phá “việc tuyên xưng đức tin chân thực và giải thích đúng đắn”. Năm Đức Tin sẽ là dịp để học hỏi các bản văn Công đồng vừa qua một “cách thích hợp”, bởi đó là “những văn bản giá trị và có tính cách quy phạm của Huấn Quyền Hội thánh”. Nói cách khác: “Nếu chúng ta đọc và đón nhận, thì Công đồng ngày càng có thể và trở thành sức mạnh lớn để thực hiện sự canh tân Giáo hội ngày càng cần thiết” (CCĐT, 5).

Theo Đức Bênêđíctô XVI, việc canh tân Giáo hội cũng tiến hành qua chứng tá đời sống của các tín hữu, nhờ sự hiện diện của họ giữa trần thế, khi biết rằng “Giáo hội tiến bước trong cuộc lữ hành của mình ngang qua những cuộc bách hại của trần gian và những an ủi của Thiên Chúa” (LG, 8). Nhưng Đức Giáo Hoàng cũng biết rằng “những sầu khổ và khó khăn, đến từ bên ngoài cũng như bên trong” (CCĐT, 6). “Cuộc bách hại Giáo hội lớn lao nhất không đến từ những kẻ thù bên ngoài, nhưng phát xuất do tội của Giáo hội” (Đức Bênêđíctô XVI, 11/5/2010, tại Lisbonne). Do đó, Giáo hội kêu gọi một cuộc trở về với Chúa, Đấng cứu độ duy nhất của trần gian, cách mới mẻ.

Trong Tông Thư này, Đức Giáo Hoàng cống hiến một huấn giáo nhỏ về đức tin: đức tin là gì, đức tin mang lại điều chi, đức tin hoạt động những gì, nhất là nhờ bác ái: “Nhờ đức tin, sự sống mới này hình thành toàn thể cuộc sống con người theo tính mới mẻ triệt để của sự sống lại… “Đức tin hoạt động nhờ đức mến”. (Ga 5,6), trở thành một tiêu chuẩn mới để hiểu biết và hành động, thay đổi toàn thể cuộc sống của con người” (CCĐT, 6).

Đức Bênêđíctô XVI cũng kêu gọi: Giáo hội cần dấn thân phục vụ công cuộc Tân Tin mừng hóa cách xác tín hơn, để tái khám phá niềm vui đức tin”. “Đức tin tăng trưởng khi được sống như một cảm nghiệm về tình yêu đã nhận lãnh và khi được thông truyền như một kinh nghiệm về ơn thánh và niềm vui” (CCĐT, 7).

Đức Giáo Hoàng đề nghị cho các anh em Giám mục của mình trên toàn thế giới hãy tưởng niệm hồng ân đức tin quý giá, đặc biệt khi tuyên xưng đức tin vào Chúa Phục Sinh trong các nhà thờ chánh tòa của chúng ta, trong các thánh đường, ngay dưới mái nhà chúng ta, bên những người thân yêu trong gia đình chúng ta, để mỗi người thông truyền cho các thế hệ mai sau đức tin ngàn đời: “Các cộng đoàn, dòng tu cũng như các giáo xứ, và toàn thể các tổ chức Giáo hội cũ cũng như mới, hãy tìm cách làm cho việc tuyên xưng Kinh Tin Kinh một cách công khai trong Năm Đức Tin này”. Ngài cũng đề xuất một cách ghi nhớ kinh Tin Kính để đức tin luôn cư ngụ trong tâm hồn chúng ta trong mọi hoàn cảnh.

Trong tư cách một nhà thần học rất nổi tiếng, Đức Giáo Hoàng nhắc đến sự hiệp nhất sâu sắc giữa nội dung đức tin và hành vi ta tin vào Thiên Chúa, trong tự do hoàn toàn (CCĐT, 10). Nhưng nếu hành vi đức tin là một ân huệ của Thiên Chúa, thì ân huệ này không chỉ mang tính cách cá nhân: “Chính việc tuyên xưng đức tin là một hành vi cá nhân, đồng thời cũng mang tính cộng đoàn”. Giáo hội dạy chúng ta vừa tuyên xưng: “Tôi tin”, vừa tuyên xưng “Chúng tôi tin”. Và đó là điều rõ ràng: “Đức tin đòi hỏi một chứng tá và một dấn thân công khai. Người Kitô hữu không bao giờ được nghĩ rằng đức tin là một việc tin riêng”.

Không loại trừ “những người không nhìn nhận hồng ân đức tin nơi mình”, Đức Giáo Hoàng ca ngợi những người đang tìm kiếm ý nghĩa và chân lý, cuộc tìm kiếm này có thể là “một “tiền đề” đích thực của đức tin, bởi nó thúc đẩy con người trên con đường dẫn đến mầu nhiệm Thiên Chúa” (CCĐT, 10). Ở đây, ta gặp lại trọn vẹn vị thế Đức giáo Hoàng dành cho lý trí: “Lý trí con người mang trong mình đòi hỏi về điều gì có giá trị và tồn tại mãi mãi” (CCĐT, 10).

Bắt đầu số 11 của Tông Thư, Đức Giáo Hoàng bàn đến tầm quan trọng của Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo, “một trong những thành quả quan trọng nhất của Công Đồng Vaticanô II”, để mời gọi tái khám phá tổng hợp có hệ thống và cấu trúc này: tổng hợp nhưng nội dung đức tin được tuyên xưng, cử hành, sống và cầu nguyện.

Mắt hướng về Đức Giêsu-Kitô là Đấng “khai mở và kiện toàn đức tin” (Dt 12,2), Đức Giáo Hoàng nhìn lại những gương mẫu đức tin đã ghi dấu hai ngàn năm lịch sử cứu độ chúng ta. Nhờ đức tin, Mẹ Maria đã tin vào lời loan báo Mẹ sẽ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Nhờ đức tin, các Tông đồ đã tin vào lời loan báo Nước Thiên Chúa. Nhờ đức tin các môn đệ hình thành cộng đoàn đầu tiên. Nhờ đức tin, các vị từ đạo hiến mạng sống mình. Nhờ đức tin, những người nam nữ đã dâng cuộc sống mình cho Đức Kitô. Nhờ đức tin, nhiều Kitô hữu đã cổ vũ hoạt động bênh vực công lý để cụ thể hóa Lời Chúa. Nhờ đức tin những người nam nữ thuộc mọi lứa tuổi đã tuyên xưng vẻ đẹp của việc theo Chúa Giêsu: trong gia đình, nghề nghiệp, trong đời sống công khai, trong việc thi hành các đoàn sủng và thừa tác vụ mà họ được mời gọi đảm trách.

Để kết thúc, Đức Giáo Hoàng liên kết lại Đức tin và Đức mến, bằng cách trích lời thánh Phaolô: “Hiện nay, đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn là đức mến” (1Cr 13,13); và lời của thánh Giacôbê: “Cũng vậy, đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Mối liên kết thật là cốt yếu: “Đức tin không đức mến thì không mang lại thành quả, và đức mến không  có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Đức tin và Đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình… Đó là đức tin giúp nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thúc đẩy cứu giúp Chúa mỗi khi Ngài trở thành người thân cận của chúng ta trên đường đời” (CCĐT, 14)

Ngày 24.9.2011, tại Freiburg, Đức Giáo Hoàng đã khích lệ đừng trở thành Kitô hữu khô nguội. Lần này, ngài cũng yêu cầu đừng trở thành Kitô hữu lười biếng trong đức tin: “Được khích lệ nắm bắt những dấu chỉ thời đại trong hiện tại của lịch sử, đức tin cũng thúc đẩy mỗi người chúng ta trở thành dấu chỉ sinh động về sự hiện diện của Đấng Phục Sinh trên toàn thế  giới” (CCĐT, 15). Điều mà thế giới ngày nay cần đến, đó là một chứng tá đáng tin cậy. Chắc chắn “Cuộc sống của các Kitô hữu luôn cảm nghiệm niềm vui và đau  khổ…”, nhưng “những thử thách của đời sống là một tiền đề báo trước niềm vui và hy vọng mà đức tin dẫn đến… Chúng ta mạnh mẽ tin chắc rằng Chúa Giêsu đã chiến thắng sự ác và cái chết (CCĐT, 15) Đức Giáo Hoàng kết luận bằng cách trao phó Năm này cho Mẹ Thiên Chúa, được tuyên xưng là “diễm phục” vì Mẹ đã tin (Lc 1,45).

 


Mục Lục Năm Đức Tin

 

 ĐỨC TIN VÀ BÍ TÍCH

(giaolyductin.net)

Cách đây ít tháng, tôi ghé thăm một linh mục bạn. Anh ta đang gặp chuyện buồn. Một học sinh giáo lý lớp Thêm Sức, mới mười bốn tuổi, vừa đâm chết một học sinh cùng trường. Sau khi kể cho tôi nghe chuyện buồn ấy, anh lắc đầu nói: “Người ta có giáo lý mà không có đức tin; có bí tích mà không gặp gỡ Thiên Chúa; dâng lễ mà không dâng mình; có đạo mà không có Chúa”. Lời ấy của anh cứ ám ảnh tôi mãi. Đức tin là gì? Các bí tích là gì? Đức tin và các bí tích  có liên hệ gì với nhau chăng?

I. ĐỨC TIN LÀ GÌ?

1. Tin là gì?

Mọi người đều tin và mọi người đều không tin.

Những gì ta đã thấy thì không cần phải tin nữa, nhưng ngoài những điều ta thấy, còn biết bao những điều ta không thể thấy được, nhưng lại vẫn cứ tin: tin vào khoa học, vào báo chí, vào tiền bạc, vào vợ chồng, con cái, bạn bè… không tin thì không thể sống được[1].

Lòng tin nơi con người thường bắt nguồn từ một kinh nghiệm nào đó của quá khứ hoặc hiện tại: tôi dám ăn ổ bánh mì này vì tôi biết rằng người bán bánh không đầu độc tôi.… Lòng tin vào Thiên Chúa cũng thế, dựa vào kinh nghiệm bản thân, người tin quả quyết rằng có Thiên Chúa, người vô thần cũng dựa vào kinh nghiệm bản thân lại tuyên bố là không có Thiên Chúa. Những kẻ càng hô hoán rằng họ không tin gì cả, lại là những kẻ tin tưởng nhiều hơn cả. Mà không tin thì không thể sống được, nên đời họ luôn bất an, khổ sở. Còn những kẻ tin thì lại thiếu đức tin đến độ không dám nhận mình là người tin. Thiên Chúa vẫn để kẻ không tin vùi đầu trong giấc ngủ và vẫn khẽ gọi để không ép kẻ tin phải tin[2].

2. Kinh nghiệm và lòng tin

Người tin và người không tin đều có chung những kinh nghiệm sau.

2.1. Kinh nghiệm về chính mình: “Tôi có, tôi sống, tôi thấy khỏe…”  Đó là một trực giác, một lãnh vực nội tâm rất khó chuyển thông cho người khác, khoa học không thể kiểm soát được nhưng lại là một kinh nghiệm, một lĩnh vực xác thực và chắc chắn nhất.

2.2. Kinh nghiệm về các vật khác: ngay từ thời còn nhỏ con người đã có kinh nghiệm về các vật khác, khám phá ra chúng nhờ miệng, tay, các giác quan rồi được hoàn thiện bằng các thử nghiệm khoa học. Đây là một lĩnh vực duy nhất khoa học có thể kiểm soát được.

2.3. Kinh nghiệm về những người khác: đây là một kinh nghiệm phức tạp nhất trong đời sống con người. Kinh nghiệm này tạo nên trong lòng người một sự tin cậy, yêu thương nhưng cũng gợi lên những đắng cay, chua chát. Càng yêu và được yêu nhiều, con người càng thấy cuộc đời đáng sống. Nhưng tình yêu nhân loại dường như vẫn luôn gặp phải những giới hạn, thử thách, những mỏng dòn, đổ vỡ từ mọi phía. Chính vì thế, nơi thâm sâu lòng mình dù tín ngưỡng hay vô tín, con người vẫn luôn khao khát, luôn hướng về một sự bền vững, chắc thực cho lòng tin của mình[3].

3. Đức tin là gì?

Con người đói khát Thiên Chúa, vì Thiên Chúa vẫn hiện diện nơi họ nhưng nếu Thiên Chúa đã không tỏ mình ra, thì chẳng có ai đến được với Người.

3.1. Mặc khải và đức tin

Mặc khải là Lời Thiên Chúa nói với loài người, để tự giới thiệu cho họ. Thiên Chúa là bản vị mà mọi bản vị đều là mầu nhiệm, không có mặc khải thì sẽ không hiểu được mầu nhiệm. Rất may! Thiên Chúa là bản vị nhưng Người cũng còn là tình yêu, không một tình yêu nào mà không có mặc khải. Người đã mặc khải mình qua tạo thành, qua sự hiện diện lâu dài đầy âu yếm của Người nơi lịch sử Do Thái giáo và Kitô giáo, và nhất là Người đã mặc khải cách tròn đầy nhất nơi Đức Giêsu. Nơi Người, ta thấy được Thiên Chúa bằng xương bằng thịt, đang ở giữa ta, đang yêu thương đến chết vì ta. Chính vì thế, tin vào Thiên Chúa cũng có nghĩa là tin rằng Thiên Chúa là Đấng đã nói, đã tự mặc khải mình ra, là tin vào những gì Người nói về gia đình Ba Ngôi, về dự định tình thương của Người đối với ta, về ơn cứu độ Người đang kéo ta vào, về cuộc Hôn nhân Người đang mời ta cùng Người thực hiện[4].

Để có thể tin vào ai, ta phải biết chắc rằng người ấy thương mến ta và ta cũng ít nhiều thương mến người ấy. Muốn biết Thiên Chúa yêu ta đến mức nào thì hãy mở Kinh Thánh ra, trong đó Thiên Chúa và con người, con người và Thiên Chúa đang kể lại những hành vi yêu thương và cứu độ của Người[5].

3. 2. Đức tin trong Kinh Thánh

Kinh Thánh cho thấy đức tin như một đáp trả đầy đủ việc Thiên Chúa mặc khải chính mình và thông chia sự sống Người cho ta. Đức tin chính là việc vui mừng đón nhận Đấng là sự thật và là tình yêu trong lòng biết ơn. Đây chính là đức tin sinh hoa kết quả trong tình yêu[6].

3. 2.1. Việc tạo dựng con người của Thiên Chúa

Khi tạo dựng con người  theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, Thiên Chúa đã tự  do quyết định gọi  mỗi người bằng một tên gọi độc nhất vô nhị và gọi tất cả mọi người trong Ngôi Lời của Người. Đó chính là việc Thiên Chúa tự do chia sẻ hữu thể, sự sống, sự thật, khả năng đón nhận và đáp trả tình yêu. Nhưng ta chỉ có thể đến được với sự sung mãn của hữu thể ta khi chấp nhận lời Người, đón nhận lời ấy hơn hết tất cả mọi sự với lòng biết ơn, và đáp trả bằng  trọn vẹn con người của ta[7].

3. 2.2. Đức Kitô và công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa

Việc Thiên Chúa tự mặc khải và trao ban chính mình đạt đến tầm vóc viên mãn nơi Đức Kitô. “Sau hết vào những ngày này Thiên Chúa đã nói với ta bằng chính Con Một Người” (Dt 1, 2). Trong và nhờ Chúa Giêsu, Chúa Cha đã đoái nhìn đến ta bằng tất cả vinh quang và tình yêu của Người. Và đây chính là sự thật đối với chúng ta: trong và nhờ Đức Kitô nhân loại có thể tôn vinh và làm đẹp lòng Thiên Chúa cách xứng đáng với phẩm giá siêu việt của mình. Trong Đức Kitô ta được cứu độ, và nhờ đức tin ta tham dự vào sự sống của Người. “Ai có Chúa Con thì có sự sống. Ai không có Chúa Con  thì không có sự sống” (1 Ga 5, 12)[8].

Như thế, nhờ Đức Kitô, Ngôi Lời đã thành xác phàm, con người tiến đến cùng Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần và dần dần có thể tham dự vào bản tính Thiên Chúa (Xem Ep 2, 18; 2 Pr 1, 4). Đó chính là hiệu quả của đức tin

3.3. Hiệu quả của đức tin

Đức tin không chỉ cho ta cảm nghiệm được Thiên Chúa mà còn làm cho ta nên con Thiên Chúa, nên anh em với nhau và tham dự vào sự sống Thiên Chúa.

Theo thánh Gioan thì nếu bảo rằng đức tin cần thiết cho ơn cứu độ thì vẫn còn quá ít. Vì đối với ngài, không có đức tin sẽ không có sự sống thật, và đức tin đã là khởi đầu của cuộc sống vĩnh cửu rồi. Đức tin cho ta quyền được làm con Thiên Chúa (Ga 1, 12; 3,5; 7, 16; 6, 47; 11, 25; 1 Ga 2, 24)[9].

Nếu ta hợp nhất với Đức Kitô nhờ tin vào danh Người, thì lời cầu nguyện và các hành động của ta sẽ đạt đến tận cõi lòng của Chúa Cha: “Mọi việc anh em làm, mọi lời anh em nói, hãy làm vì danh Chúa Giêsu, nhờ Ngài mà tạ ơn Thiên Chúa Cha” (Col 3, 17). Đó là điều ta có thể làm được nhờ Thần Khí Tình yêu và cũng là Thần Khí Sự Thật. Thần Khí ấy cho ta một kinh nghiệm đức tin sâu xa hơn khiến ta có thể bước vào trong một tương quan đầy tin tưởng với Thiên Chúa. “Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính hoá nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thánh Thần của Thiên Chúa chúng ta” (1 Cr 6, 11). Thần Khí, Đấng Chúa đã sai đến với ta từ nơi Cha, kêu lên trong lòng ta: “Abba, Cha ơi!” (Gal 4, 5). Như thế, cuộc sống của ta được hợp nhất trong Đức Kitô Giêsu, nhờ đức tin và như thế cũng được đưa vào trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi[10].

Trong lòng tin Kitô giáo, thì Đức Kitô chính là trung gian của việc con người gặp gỡ Thiên Chúa, vì chính nhờ tin vào Đức Kitô mà “mọi cảm thức về Thiên Chúa mà cuộc sống con người không khi nào đánh mất, trở thành trong suốt, thành mặc khải lòng nhân từ và phán quyết của Thiên Chúa”[11].

Những ai đã được hoà giải trong Đức Kitô, thậm chí phải chịu đau khổ, có thể đáp trả bằng một đức tin thờ phượng, đồng thời cũng là một đức tin sống động trong tình liên đới cứu độ. “Giờ đây tôi vui mừng chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích của thân thể Người là Hội Thánh” (Col 1, 24)[12].

Trong Đức Kitô ta được hoà giải với Thiên Chúa và với nhau. Tất cả chúng ta chỉ là một thân thể, là những chi thể của nhau (Ep 4, 25). Nhờ đức tin, tình yêu của Chúa Giêsu Kitô có thể lan toả nơi ta cả trong sự căm ghét của kẻ thù. Và sự giải thoát này chính là kết quả của đức tin và của việc thể hiện đức tin của ta. “Nếu kẻ thù anh em đói, hãy cho nó ăn, nó khát hãy cho nó uống, khi anh em làm như thế là anh em đã chất than hồng lên đầu nó. Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12, 20- 21)[13].

Như thế, đức tin trở nên một sự thống nhất đời sống ta trong tình bằng hữu với Thiên Chúa và trong cộng đoàn của tình yêu thương huynh đệ và công chính. Vậy đức tin là gì?

3. 4. Định nghĩa đức tin

Đức tin là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Nên nơi nào không có một lòng biết ơn sống động, nơi đó sẽ không còn ơn đức tin này[14].

Đức tin, hiểu theo nghĩa Kinh Thánh, là một hành vi và thái độ của con tim, là một quyết định của tinh thần trong cõi thẳm sâu nhất, nơi việc tự biết mình và tự do yêu thương hợp nhất với nhau trong một sự thống nhất độc đáo của mọi quan năng của ta, của lý trí, ý chí, ký ức và tình cảm của ta[15].

Thánh Gioan cho ta thấy sự hiểu biết đức tin chính là việc nắm bắt được sự hiện hữu đầy yêu thương: “Sự sống đời đời tức là chứng nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất và chân thật, và Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô” (1 Ga 17, 3). Đức tin của thánh Gioan không xuất phát từ việc nghiên cứu triết học nhưng từ việc gặp gỡ Đức Kitô, Đấng kêu gọi và cho phép thánh nhân sống trong sự tình thân với Người, cho ngài quyền được làm con Thiên Chúa (Ga 1, 12; 3,5; 7, 16; 6, 47; 11, 25; 1 Ga 2, 24)[16].

Đối với các tông đồ, đức tin có một nội dung: Đức Kitô là Con Thiên Chúa, đã chết, đã sống lại cho ta, và đã sai Chúa Thánh Thần đến với ta.

Thánh Phaolô đã đồng hoá đức tin với việc vâng phục đức tin, nghĩa là, một sự đón nhận Tin Mừng trọn vẹn và tự do ôm lấy nhiệm cục cứu độ trong Đức Kitô Giêsu (Rm 1,5; 10, 16; 2 Cr 9, 13). Trong đức tin, các tín hữu từ bỏ vinh quang của con người và hiến mình cho vinh quang Thiên Chúa, và ngày càng mong ước được hiểu biết Chúa hơn[17].

Đức tin theo ý nghĩa trọn vẹn nhất chính là một hành vi quan trọng nhất của lương tâm, là chọn lựa căn bản triệt để nhất, là việc tự hiến trọn vẹn cho Đức Kitô, Đấng mặc khải chân lý. Đức Kitô, Đấng đã mặc khải chính mình là tình yêu, đã hiến toàn thân cho ta, không thể chấp nhận một đức tin không phải là một sự toàn hiến cho Người, và nhờ Người, toàn hiến cho Cha và cho anh chị em của Người[18].

“Tin vào Đức Kitô là chấp nhận chính mình trong sự hiểu biết rằng chính Thiên Chúa đã chấp nhận mình trong hy lễ của Đức Kitô” [19].

Trong đức tin, ta mong chờ và chấp nhận mọi sự từ nơi Thiên Chúa, sẵn sàng trao hết mọi sự cho Đấng đã mặc khải cho ta chiều sâu và chiều cao của tình yêu của Người. Như thế, đức tin là việc vui mừng đón nhận với lòng biết ơn Đấng là sự Thật cứu độ, là Tình yêu tuyệt đối, và cũng là Đấng đang mời gọi ta, để trở nên sự sống trọn vẹn của ta.

Tóm lại,  đức tin không phải là một mớ “những điều phải tin” nhưng là một tương quan sống động và đích thân giữa con người với Thiên Chúa và với Đức Kitô. Chính họ đã cảm nghiệm được tình Người mặn nồng tha thiết như tình của một người mẹ “đưa tay ẵm lấy con thơ, nâng niu nó trên đầu gối” (Is 66, 12). Đó mới là Tin Mừng, một Tin Mừng phải được loan báo cho con người hôm nay. Cái mà ta gọi là “những điều phải tin” trước hết là một kinh nghiệm, kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ đích thân của ta với Thiên Chúa[20], kinh nghiệm về một mối tình Người đã trao tặng cho ta. Mối tình ấy đã khởi sự từ thời Abraham, mỗi ngày lại được phong phú, mặn nồng hơn và đã trở nên thành toàn trong Đức Kitô Nhập Thể và Vượt Qua. Nhờ Người, với Người và trong Người, toàn nhân loại đã được kết duyên với Đấng là tình  yêu không hề vơi cạn. Bởi thế, bao lâu còn nhân loại, bấy lâu mối tình ấy vẫn còn trào tràn, vô tận[21].

Thiên Chúa luôn muốn ta biết Người như  một người đang sống, biết để thiết lập một tương quan, để yêu và cùng Người thiết lập một khế ước hôn nhân. Vì thế, mọi học hỏi về đức tin sẽ vô ích nếu việc học hỏi đó không làm cho ta nhận ra một Ai đó đang có mặt trong đời ta, đang đồng hành với ta, đang chung chia với ta tất cả những vui buồn trong cuộc hiện sinh của ta. Không chỉ có thế mà còn hơn thế nữa, Người vẫn đang hướng dẫn ta về nơi hạnh phúc đích thực là chính sự sống, sự tự do và tình yêu của Người[22]. Vì thế, tin vào Đức Kitô đòi ta cũng phải sống như Người  đã sống.

3. 5. Đòi hỏi của đức tin

Các Kitô hữu ý thức rằng, đức tin vào Thiên Chúa của mình không chỉ là việc gật đầu với kinh tin kính[23], mà còn là một lời tuyên chiến chống lại tất cả những gì không phải là Thiên Chúa, không có trong Thiên Chúa, không thuộc về Thiên Chúa. Hơn nữa, đức tin ấy còn đòi họ phải trở nên đồng hình, đồng dạng với Đấng vì họ, đã chấp nhận chết trên thập giá.

Hơn bao giờ hết, con người hôm nay đang để mình trở nên bị lệ thuộc hoàn toàn đến độ trở thành tín đồ của giới tính, quyền lực và tiền bạc. Tin vào Thiên Chúa đòi ta phải từ khước liên minh với cả ba thứ ấy. Đó là chọn lựa sống còn của ta: “Hoặc tôn thờ Thiên Chúa hoặc tôn thờ tiền bạc” (x. Mt 6, 24).  Lời tuyên tín trên môi của các tín hữu là lời tuyên chiến chống lại quyền lực hiện hành, sự tiêu thụ, tiện nghi, tiền bạc và khoái lạc bất chính[24].

3.5.1. Từ khước liên minh với thế gian: Vào thời đế quốc Rôma, người công dân phải tôn thờ Hoàng Đế như một vị thần. Các tín hữu của Đức Kitô đã không chấp nhận sự tôn thờ ấy. Họ đã bị coi là những người “vô thần” và đã phải trả giá bằng chính sinh mạng mình để trung thành với lòng tin vào vị Thiên Chúa độc nhất. Vì thế, lòng tin vào Thiên Chúa không phải là một trò chơi của trí óc và môi miệng mà là sự dấn thân thực sự vào cuộc đấu tranh cho tự do của cá nhân và tập thể, thứ tự do mà Thiên Chúa đã dùng quyền năng Người mà giựt thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai cập (Xh 20) và hôm nay khỏi mọi thứ ràng buộc và nô lệ cho quyền lực, tình dục và tiền bạc. Cuộc đấu tranh sống còn này không cho phép ta thoả hiệp vì thoả hiệp nghĩa là tự cho phép mình đưa vào trong quĩ đạo của Thiên Chúa những thần linh giả tạo, là tự biến con người mình thành một thứ đền thờ đa thần của Đế quốc Rôma xưa[25].

3.5.2. Mọi quyền lực phải phục vụ con người: Tin vào Thiên Chúa là quyết liệt từ chối mọi thứ quyền lực kể cả quyền lực tôn giáo. Lòng tin vào Thiên Chúa sẽ bẻ gãy mọi tham vọng chính trị độc đoán. Vì chỉ có con người mới thực sự tuyệt đối nhờ tương quan đích thân của mình với Thiên Chúa, còn mọi thứ khác: các tổ chức chính trị, xã hội, tôn giáo, sẽ chỉ là những phương tiện, những công cụ để phục vụ con người. Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối mà mọi quyền lực đều phải qui về. Nhờ tương quan với Người, con người cũng trở nên tuyệt đối. Nên mọi quyền lực đều ở dưới quyền con người. Nếu các tín hữu đã không tôn thờ Hitler cách mù quáng thì đã không xảy ra thế chiến thứ hai. Ru ngủ kinh tin kính của mình sẽ mang lại những hậu quả vô cùng tai hại[26].

3.5.3. Khước từ mọi khoái lạc bất chính: Tình dục cũng là một thứ thần linh giả tạo. Để tình yêu giữa hai người nam nữ có tính duy nhất, vĩnh viễn và không bị chia sẻ họ phải qui chiếu tình yêu ấy về nguồn mạch của nó là chính Thiên Chúa. Ngoài Người ra, tình yêu sẽ chỉ còn là một thị hiếu nhất thời của dục vọng, sẽ đẩy con người vào những xu hướng nhục dục thuần tuý, và những hậu quả bi thảm của xu hướng ấy[27], sẽ làm cho họ trở thành những tín đồ luôn bị dằn vặt của thần khoái lạc. Nên ở đây, tin vào Thiên Chúa, đòi ta phải hoặc làm tôi Thiên Chúa hoặc làm tôi dục tình[28].

3.5.4. Khước từ tiền bạc, tiện nghi: Khi đã xa lánh Thiên Chúa của kinh tin kính, con người sẽ dìm mình vào tiện nghi và hưởng thụ, sẽ tế lễ cho cơm bánh và những đòi hỏi của bản năng. Khuôn cửa hẹp dẫn đến Thiên Chúa không thể nới rộng ra cho những người có quá nhiều hành trang, nên đòi ta hoặc tin vào Thiên Chúa hoặc tin vào những hành trang ấy. Không có sự chọn lựa này, lời tuyên tín của các tông đồ chỉ là một mẩu văn chương xưa cũ[29].

Kẻ phản bội Thiên Chúa hơn cả đương nhiên vẫn là tiền bạc. Đó là “con bò vàng” khi xưa trong dân Israel, là kẻ “toàn năng” có thể mua được tất cả trừ vị Thiên Chúa độc nhất. Thiên Chúa và tiền bạc là hai người chủ, mến người này tất sẽ ghét người kia (Mt 6,24)[30].

3.5.5. Hiến mình cho Thiên Chúa và đồng loại: Hơn thế nữa, quan tâm hàng đầu của các Kitô hữu bao giờ cũng là mầu nhiệm Vượt Qua, một mầu nhiệm nhờ đó Đức Kitô đã đóng ấn giao ước vĩnh cửu bằng chính máu Người, và Chúa Cha cũng đã niêm ấn bằng quyền năng phục sinh của Người. Ai tin rằng Thiên Chúa đã hiến mình cho dân Người như thế mà lại không đáp trả bằng việc dâng hiến chính mình, thì vẫn chưa có được một đức tin đích thật, đem lại ơn cứu độ.

Tóm lại, đức tin là một ơn nhưng không, Thiên Chúa ban cho con người, để họ gặp gỡ Người, đi vào trong cuộc hôn nhân Người đang mời họ thực hiện. Đức tin là một kinh nghiệm sống, một kinh nghiệm làm thay đổi chất lượng sống của con người[31]. Nhờ đức tin này và dựa trên đức tin này, mà Hội Thánh gặp gỡ, đi vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa nhờ các bí tích.

II. CÁC BÍ TÍCH

1. Kinh nghiệm:

Mọi sự đều bắt đầu bằng một kinh nghiệm.

Các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu lúc đầu không quan tâm gì tới nghi lễ mà chỉ muốn truyền lại kinh nghiệm của họ về Người. Và kinh nghiệm ấy bao giờ cũng là câu chuyện về việc Chúa Giêsu đã tỏa sáng trên họ ra sao, Người đã nên bình minh xua tan bóng tối đêm đen của họ thế nào[32].

Để mừng kinh nghiệm  ấy, các ngài đã tận dụng những nghi lễ tương tự. Các nghi lễ cũ khi được dùng để cử hành một kinh nghiệm sống sâu sắc, sẽ mặc lấy một ý nghĩa mới[33].

Ví dụ: Lễ Vượt Qua, biến chuyển từ một nghi lễ của dân du mục được cử hành vào mùa xuân, thành một nghi lễ cử hành việc Thiên Chúa giải thoát dân khỏi cảnh nô lệ và ký kết giao ước với họ. Chúa Giêsu đã biến đổi ý nghĩa của lễ Vượt Qua Do Thái thành một cuộc vượt qua thế gian đi vào trong Thiên Chúa[34].

Các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu cũng làm như thế. Phép rửa bằng nước là một nghi lễ đã có từ lâu, mọi người đều biết, có sẵn trong tầm tay. Các môn đệ Chúa Giêsu nắm ngay lấy nghi lễ ấy để diễn tả việc họ được đi vào trong mầu nhiệm Chúa Giêsu, diễn tả ý nghĩa của một khởi đầu mới, một sự mở ngỏ mới cho Thánh Thần, Đấng đang hoạt động giữa họ.

Ở đâu không có một kinh nghiệm chung nào để mừng thì thật khó, nếu không muốn nói rằng không thể mừng được. Các bí tích xuất phát từ kinh nghiệm chung của cuộc sống. Đó là những biểu tượng, làm cho “thành hiện tại” những gì chúng biểu thị. Nhờ các bí tích ấy, ta “gặp được Thiên Chúa”. Như thế, bí tích không phải là những sáng tác tùy tiện của Hội Thánh[35].

Chẳng ai rời khỏi các buổi mừng lễ ấy mà lại không ý thức hơn mình là ai. Những cuộc mừng lễ bao giờ cũng nhấc ta lên cao, rồi trả ta về lại với cuộc sống hằng ngày với một cái nhìn mới[36].

Kinh nghiệm sống, kể chuyện và mừng lễ là ba yếu tố quan trọng của mọi nghi lễ.  

2. Kinh nghiệm  sống:

Một kinh nghiệm hay một hoạt động nào đó bắt đầu trở thành một kinh nghiệm sống, khi kinh nghiệm hoặc hoạt động ấy bắt đầu mang một ý nghĩa, hay khi người ta ý thức rằng kinh nghiệm ấy đụng đến chất lượng của đời mình[37]. Nói cách khác, kinh nghiệm sống chính là kinh nghiệm  bình thường nhưng lại mang một ý nghĩa, mà còn hơn thế nữa, ý nghĩa ấy có liên quan tới bản thân tôi[38]. Một tai nạn xe khủng khiếp tôi vừa chứng kiến, một lễ phong chức trọng thể tôi vừa tham dự. Đó là những chuyện khách quan có ý nghĩa, nhưng lại không dính dự gì tới đời tôi. Nhưng nếu khi nghĩ đến những chuyện ấy, tôi thấy được sự mong manh của thân phận con người, và sự cao đẹp của một đời theo Chúa, thì kinh nghiệm  ấy bắt đầu trở thành một kinh nghiệm sống. Nên suy gẫm là điều cốt yếu nhất để biến một kinh nghiệm bình thường thành kinh nghiệm sống[39].

Không kinh nghiệm sống sâu sắc nào, bất chấp đó là kinh nghiệm về hạnh phúc hay đau khổ, giận ghét hay yêu thương, mà lại không bắt đầu bằng lúng túng hoang mang. Tất cả các câu chuyện về việc Chúa phục sinh đều bắt đầu bằng sự kinh ngạc và sợ hãi của các phụ nữ, rồi sự bối rối và nghi ngờ của các môn đệ[40]. Nhưng những câu chuyện ấy trong Tân Ước chỉ là những kinh nghiệm bình thường, và từ những câu chuyện ấy, kinh nghiệm sống  của các môn đệ về Chúa phục sinh bắt đầu được hình thành.

3. Kể chuyện:

Khi có được kinh nghiệm sống, thì bao giờ người ta kể lại cho người khác. Khi có được một kinh nghiệm sống nào đó, người ta không tìm cách trừu tượng hóa kinh nghiệm ấy, biến nó thành những công thức mà thường đặt nó vào trong hình thức của các câu chuyện. Kể chuyện là cách căn bản và tự nhiên nhất để đặt tên cho một kinh nghiệm sống[41]. Chuyện của Chúa Giêsu đang nặn đúc nên ý nghĩa của đời ta và mọi truyền thống của cộng đoàn và gia đình ta. 

Kinh nghiệm sống và kể chuyện gắn kết chặt chẽ với nhau đến độ khó có thể tách rời. Kể chuyện và mừng lễ cũng vậy, không dễ gì có thể tách biệt được[42].

4. Mừng lễ

Ta cần một bối cảnh để kể chuyện, và mừng lễ là bối cảnh sáng giá nhất cho việc kể chuyện của ta. Kể chuyện là phần cốt yếu không thể thiếu trong các cuộc lễ của gia đình. Các câu chuyện trong Cựu và Tân Ước đều được hình thành trong bối cảnh của việc phượng tự.  Nếu người ta không nhắc lại các câu chuyện ấy trong các cuộc mừng lễ, thì chắc chắn nhiều chuyện đã bị quên lãng, và ta sẽ chẳng bao giờ có được bộ Kinh Thánh. Cuộc mừng lễ nào cũng đòi phải có phần kể chuyện[43]. 

Cả những khi cử hành bí tích cũng là những lúc ta kể chuyện. Trọng tâm của Kinh Tạ Ơn là một câu chuyện kể lại lý do tại sao ta lại dâng lời tạ ơn và bẻ bánh như thế. Không có các câu chuyện để nói lên ý nghĩa của nó, các nghi thức sẽ không có nền tảng[44].  Không còn chuyện để kể, nghi lễ sẽ không còn nền tảng.

Việc mừng lễ không bao giờ kết thúc nơi chính nó. Nó trôi ra khỏi cuộc sống rồi lại quay trở về với cuộc sống. Bao giờ ta cũng mừng một cái gì đó, và cái đó bao giờ cũng bắt rễ trong hai yếu tố đầu tiên của chu kỳ ta đã nói đến[45].  Bí tích bao giờ cũng cử hành  một cái gì đó và cái ấy luôn luôn liên quan tới tình yêu Thiên Chúa, liên quan tới câu chuyện mà ta đã kinh nghiệm. Không có yếu tố này, chắc chắn nghi lễ sẽ chỉ còn là ma thuật và vụ luật.

Như thế, các bí tích bắt nguồn từ kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh, không có biến cố nền tảng này, sẽ không có Hội Thánh, không có những con người được cứu độ, không có các bí tích… (x. 1 Cr 15). Có lẽ chính vì thế mà Joseph Martos đã nhận xét rằng các tác giả Tân Ước khi viết về bí tích đã dựa trên những gì họ và những người khác đã kinh nghiệm được về sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa trên trần gian này[46]. Các tác phẩm đầu tiên về bí tích đều có liên hệ mật thiết với kinh nghiệm ấy của cá nhân và cộng đoàn nên sử dụng nền thần học bí tích mà không biết gì đến kinh nghiệm sẽ đưa đến chỗ hiểu biết các bí tích cách siêu hình và ma thuật[47].

Chính vì thế mà, các thần học gia thế kỷ 20 đã nhìn bí tích chủ yếu như một cuộc gặp gỡ Thiên Chúa, và họ quả quyết rằng Đức Kitô chính là bí tích của Thiên Chúa, và Hội Thánh là bí tích của Đức Kitô, còn bảy bí tích chỉ là những phương thế cho ta gặp gỡ Thiên Chúa.

5. Bí tích là cuộc gặp gỡ Thiên Chúa

Theodule Rey-Mermet nhận xét chính Thiên Chúa đã làm người để loài người gặp gỡ và yêu mến Người. Nên các bí tích mãi vẫn là cử chỉ của Thiên Chúa chứ không phải là của ta. Cử chỉ lớn nhất chính là cuộc nhập thể của Chúa Giêsu (Gl 4, 4). Nhưng Người đã nhập thể chỉ để gặp gỡ, thánh hoá và thần hóa ta, chỉ để nâng nhân tính của ta lên hàng thần thánh, để thâu họp con cái Thiên Chúa đang tản mát khắp nơi, mà chia cho họ tất cả những gì là thực hữu của Người, như Người đã bảo: “Khi nào bị kéo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta” (Ga 12, 32). Như thế, Người đã nhập thể chỉ để thâu họp mọi người rồi cùng với họ, vượt qua thế gian này mà về cùng Cha. Đó là cùng đích của cuộc nhập thể của Người  và cũng là chóp đỉnh của tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu chính là tình thương cứu độ hữu hình của Thiên Chúa, là bí tích của mọi bí tích, nên mọi bí tích đều là mầu nhiệm Vượt Qua được thực hiện trong cuộc sống con người[48].

Đối với Schillebeeckx[49], các bí tích là những dấu chỉ bề ngoài mặc khải ra một thực tại siêu việt, thiên linh, mở ra khả năng yêu mến Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu khi sống tại Palestine cũng là một loại bí tích như thế.  Khi họ gặp Người, họ thấy mình đang ở trong sự hiện diện của một mầu nhiệm, nhưng mầu nhiệm đó khi được mặc khải cho họ, hơn hẳn một tình yêu, một sự hiểu biết và một quyền năng nhân loại.  Đối với họ, Chúa Giêsu chính là một bí tích, nhờ Người họ gặp được mầu nhiệm Thiên Chúa[50].

Cả sau khi chết, Đức Kitô vẫn là một bí tích đối với những ai đón nhận sứ điệp của Người và tin vào Người. Sau khi Người không còn hiện diện hữu hình giữa họ, họ vẫn tiếp tục cảm nhận sự hiện diện của mầu nhiệm ấy, và bắt đầu nhận ra rằng Chúa Giêsu bây giờ đã được tôn vinh, được hiệp nhất với Thiên Chúa, nhưng Người vẫn hoạt động trong thế giới này (Mc 16, 20)[51].

6. Hội Thánh là bí tích của Đức Kitô

Các nhà thần học thuộc thế kỷ 20 và Công Đồng Vatican II đã trả lại cho “bí tích” một ý nghĩa rộng rãi và truyền thống hơn, bao hàm hết mọi thực tại của lịch sử và thế giới trong mầu nhiệm cứu chuộc khi định nghĩa bí tích là dấu chỉ làm phát sinh ân sủng. Với định nghĩa ấy, Hội Thánh có thể tránh được nguy cơ không nhận ra bao nhiêu người, bao nhiêu biến cố, cử chỉ qua đó Đức Kitô gặp gỡ, cứu độ và hô to với họ rằng: Thiên Chúa yêu thương con (x. Ga 3, 16). Đồng thời, định nghĩa ấy cũng đưa Hội Thánh ra khỏi mình để đến với tất cả mọi người, để nên bí tích của sự gặp gỡ Chúa Giêsu cứu thế cho họ. Như Công Đồng Vatican II nói: “Đức Kitô là ánh sáng muôn dân. Ánh sáng ấy đang chiếu toả trên Hội Thánh. Vì Hội Thánh  ở trong Đức Kitô như bí tích, như dấu chỉ và khí cụ của sự hợp nhất toàn nhân loại, nên Hội Thánh  muốn làm sáng tỏ bản tính và sứ mệnh phổ quát này cho tín hữu và cho toàn thế giới”[52].

Vì là bí tích cứu độ, Hội Thánh  vẫn là một dấu chỉ chói ngời cho những ai không muốn nhắm mắt lại: là dấu chỉ rõ ràng trong việc rao truyền ơn cứu độ, trong những cuộc sống nhân chứng sáng ngời của các Kitô hữu, trong việc phục vụ những người đau yếu và những trẻ em thất học của các nữ tu, trong các linh mục thợ,  trong  những  phong  trào đấu tranh cho phẩm giá, tự do của những người bị áp bức, bóc lột, bị kỳ thị chủng tộc… Không ai có thể chối cãi rằng Hội Thánh vẫn đang cố gắng là bí tích minh chứng tình huynh đệ phổ quát[53].

7. Bảy bí tích là các bí tích của Hội Thánh

Hội Thánh luôn cố gắng làm cho mầu nhiệm Thiên Chúa hiện diện trên trần gian này, nhất là trong bảy bí tích: khi đưa họ vào trong đời sống mới, khi chia sẻ quyền năng Thánh Thần cho họ, khi chữa lành bệnh tật và tha thứ tội lỗi, khi trao ban các nhu cầu tôn giáo, khi trung thành với Cha và với Hội Thánh, cuối cùng khi trao hiến chính mình vì yêu. Cộng đoàn Kitô hữu công nhận rằng mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô hiện diện trong bảy bí tích ấy, và những ai tham dự các bí tích ấy cũng có thể gặp được nguồn ơn cứu độ[54].

Theo Schillebeeckx, bảy bí tích truyền thống trong Hội Thánh là các bí tích của Đức Kitô. Vì là dấu chỉ và hành động chính thức của Hội Thánh, các bí tích cũng là dấu chỉ và hành động của chính Đức Kitô. Các bí tích ấy cho thấy hành động cứu chuộc của Đức Kitô trên trần gian, và nhờ chúng, chính quyền năng của ân sủng Thiên Chúa đã được thông ban cách hiệu quả[55].

Vì là những cuộc gặp gỡ Đức Kitô, các bí tích ấy tất nhiên cũng sinh hoa kết quả: thông ban ân sủng của Thiên Chúa, và thay đổi cuộc sống con người. Nhưng kể cả khi chúng không sinh hoa kết quả, chúng vẫn là những dấu chỉ thành sự của Đức Kitô. Các dấu chỉ có thể mặc khải mầu nhiệm của một người nào đó, nhưng trên thực tế, nếu những người ấy không mở lòng ra để gặp gỡ và đáp lại mầu nhiệm ấy, thì dấu chỉ cũng đành bó tay thôi[56].

Như thế, bản chất của mọi bí tích chính là việc gặp gỡ Đức Kitô, một cuộc gặp gỡ người Công Giáo có được nhờ các nghi lễ của Hội Thánh[57].

III. ĐỨC TIN VÀ CÁC BÍ TÍCH

1. Hội Thánh là bí tích đức tin

Người Công giáo chỉ đạt được sự hiểu biết đức tin của mình khi tham dự vào việc phụng tự và đời sống của Hội Thánh, nghĩa là tham dự vào một sự hiệp thông đức tin trong Đức Kitô Giêsu.

Nhờ kết hợp với Đức Kitô và trung thành chấp nhận sứ vụ của mình, Hội Thánh là và có thể ngày một trở nên bí tích đức tin. Hội Thánh chỉ là bí tích đức tin, nếu trong toàn bộ cuộc sống mình, Hội Thánh trở nên một dấu chỉ hữu hiệu của sự hợp nhất với Thiên Chúa và đồng thời cũng là một dấu chỉ của sự hợp nhất của toàn nhân loại[58].

Sứ vụ của Hội Thánh là giúp cho mọi tín hữu và mọi cộng đoàn ngày một trở nên hình ảnh và giống Thiên Chúa, trở nên một Tin Mừng sống động, một dấu chỉ đức tin hữu hiệu vào một người Cha duy nhất của mọi người, vào một Đức Kitô Giêsu, vào một Chúa Thánh Thần, Đấng tạo nên sự hợp nhất nhờ những ân sủng khác nhau của Ngài[59].

2. Những dấu chỉ đặc biệt của đức tin

Bảy bí tích được thiết lập để mở mắt cho các tín hữu thấy được tất cả các dấu chỉ của sự hiện diện chủ động của Thiên Chúa, là những dấu chỉ vẫn kêu mời con người đến với đức tin cứu độ. Tuy nhiên, các bí tích là những dấu chỉ đặc biệt được chính Thiên Chúa thiết lập như những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng và đức tin[60].

Đó là những dấu chỉ của giao ước được niêm ấn bởi máu Đấng cứu độ. Vì là các dấu chỉ đức tin, các bí tích mời gọi và đưa ta ngày một đi sâu hơn vào trong giao ước này của cộng đoàn đức tin. Trong các bí tích ấy, Thiên Chúa nói với ta bằng những lời, những dấu chỉ và những ân sủng nhân lành của giao ước Ngài đã ban cho ta. Trong khi đón nhận các dấu chỉ của giao ước của Đức Kitô với Hội Thánh, ta tham dự vào đức tin của dân giao ước trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô[61]. Vì chính  trong ý định của Đức Kitô, Thánh Thể và các bí tích khác là những nguồn thuận lợi giúp ta lớn lên trong đức tin và trong lòng mến không bị chia sẻ, trong công lý và hoà bình, là những hoa trái của đức tin đích thật.

3. Ơn cứu độ nhờ đức tin và nhờ các bí tích

Ta được cứu độ nhờ đức tin và nhờ các bí tích nhưng đức tin đóng vai trò quan trọng hơn[62]. Thánh Tôma Aquinô viết: “Ta được cứu độ nhờ lòng tin vào Đức Kitô, Đấng đã được sinh ra và đã chịu khổ hình. Các bí tích khi ấy chỉ là các dấu chỉ làm chứng cho đức tin, nhờ chính đức tin ấy, con người được công chính hoá”[63].

Các bí tích phải được nhìn cách tường tận trong nhãn giới đức tin. “Các bí tích ấy không chỉ giả thiết phải có đức tin mà còn bằng lời nói và các dấu chỉ, các bí tích ấy còn phải nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin nữa. Đó là lý do vì sao chúng được gọi là bí tích”[64]. Tại trung tâm của các cuộc cử hành các bí tích chính là Ngôi Lời nhập thể của Thiên Chúa. Thực vậy, các bí tích nói chung chính là các dấu chỉ/ lời nói của Đức Kitô, chính Người nói khi ta đọc Kinh Thánh trong nhà thờ[65].

Hiệu quả có tính cứu độ của các bí tích xuất phát từ một mình Đức Kitô Đấng là bí tích duy nhất. Nhưng Các bí tích chỉ là những biến cố cứu độ cho những ai tin và khao khát muốn được lớn mạnh trong đức tin. Còn đối với những ai không tin và không khao khát ơn đức tin, thì bí tích chỉ là những nghi lễ rỗng tuếch. Nếu những người vô tín này có lãnh nhận bí tích đi nữa, thì đó chỉ là việc họ sử dụng các bí tích cách dối trá[66].

Ai lãnh nhận bí tích trong tinh thần đức tin và với ước vọng muốn được vững mạnh trong đức tin, một đức tin ao ước sinh hoa trái trong tình yêu, và sự công chính, thì đều được công chính hoá bởi đức tin, một đức tin do chính Thiên Chúa khơi dậy và đang làm cho sung mãn nhờ những dấu chỉ và các biểu tượng thánh thiêng này. Họ sẽ hiệp thông sâu sắc hơn với Hội Thánh, là cộng đoàn đức tin. Ta có thể hy vọng rằng cộng đoàn Hội Thánh càng cử hành các bí tích cách sốt sắng bao nhiêu, thì mỗi cá nhân tham gia vào việc tuyên xưng đức tin cũng sẽ càng được sốt sắng bấy nhiêu. Mặt khác, việc tuyên xưng đức tin của mỗi tín hữu, trong phụng vụ cũng như trong đời sống hằng ngày, nếu không muốn sống trong tình liên đới với đức tin của toàn Hội Thánh, thì cũng sẽ không có kết quả, không làm đẹp lòng Thiên Chúa[67].

Tóm lại, đức tin và các bí tích có một điểm chung, đó là việc gặp gỡ Thiên Chúa, là kinh nghiệm về một vị Thiên Chúa tình yêu, Đấng vẫn đang cùng ta xây dựng một mối tình nhờ những dấu chỉ khả giác. Bí tích không có đức tin chỉ còn là những nghi lễ rỗng tuếch. Bí tích được cử hành trong đức tin sẽ đưa con người đi sâu vào trong tương quan với Thiên Chúa và với nhau hơn và như thế lại giúp đào sâu đức tin hơn. Vì thế, Hội Thánh cần cả đức tin lẫn các bí tích.

Lm Đaminh Nguyễn Đức Thông


[1] Nguyễn Đức Thông, Kinh Tin Kính, tr. 19

[2] Nguyễn Đức Thông, Kinh Tin Kính, tr. 19.

[3] Ibid., tr. 20

[4] Ibid., tr. 20

[5] Ibid., tr. 21

[6] Bernard Haring, Tự do và Trung Thành, tập 3, tr. 305

[7] Ibid., 307.

[8] Ibid., 310

[9] Bernard Haring, Tự Do và Trung Thành, tập 3, tr. 319.

[10] Bernard Haring, Tự Do và Trung Thành, tập 3, tr. 312.

[11] R. Niebuhr, The Nature and Destiny of Man, New York, 1941, 11, 109.

[12] Bernard Haring, Tự Do và Trung Thành, tập 3, tr. 314.

[13] Ibid., 314.

[14] Ibid., 317.

[15] Xem P. Evdokimov, La conoscenza di Dio secodo la tradizione Orientale, Roma, 1969, 16; H. Bahrs, Diegottlichen Tugenden. Glaube, Hoffnung, Liebe, Aschafienburg, 1963, 29.

[16] Ibid., 316.

[17] Bernard Haring, Tự Do và Trung Thành, tập 3, tr. 319.

[18] Ibid.,

[19]Ch R. Stinette Jr. Anxiety and Faith, Greenwich/Conn., 1955, 12.

[20] Thomas P. Rausch, Đạo Công Giáo Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, bản dịch của Linh mục Đaminh Nguyễn Đức Thông, tr. 53.

[21] Nguyễn Đức Thông, Kinh Tin Kính, tr. 13.

[22] Ibid., tr. 14.

[23] Xem Bechluss der gemeinsamen Synode der Bistumer der DRD, số 6, về Hợp tác mục vụ của các Hội Thánh nhằm phục vụ cho sự hợp nhất của Hội Thánh.

[24] Nguyễn Đức Thông, Kinh Tin Kính, tr. 28

[25] Ibid., tr. 29

[26] Nguyễn Đức Thông, Kinh Tin Kính, tr. 29

[27] GS 49a

[28] Nguyễn Đức Thông, Kinh Tin Kính, tr. 30

[29] Nguyễn Đức Thông, Kinh Tin Kính, tr. 30

[30] Nguyễn Đức Thông, Kinh Tin Kính, tr. 30.

[31] Tad Guzie, Căn Bản Bí Tích, tr. 14

[32] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, tr. 10

[33] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, tr. 10 – 11.

[34] Wllliam Bausch, Một lối nhìn mới về Bí tích, tr. 192.

[35] Knox, Theology for Teachers, tr. 269.

[36] Tad Guzie. Căn Bản Bí Tích, tr. 19.

[37] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, tr. 14

[38] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, tr. 15

[39] Ibid., tr. 16

[40] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, tr. 16-17

[41] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, tr. 18

[42] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, 21

[43] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích ,tr. 22

[44] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, tr. 24

[45] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, tr. 26

[46] Joseph Martos, Cửa Vào Thánh Thiêng, tập I, tr. 59.

[47] Joseph Martos,Cửa Vào Thánh Thiêng, tập I, tr, 60.

[48] Théodule Rey-Mermet, Sống Đức Tin trong Các Bí Tích, tr. 35.

[49] Schillebeeckx là một nhà thần học Hoà Lan chuyên viết về các bí tích suốt các thập niên 1950 và 1960. Ong đã cố gắng nắm bắt lại kinh nghiệm tôn giáo trong các bí tích hầu có thể nói về kinh nghiệm ấy bằng các thuật ngữ triết học, nhưng không phải là thuật ngữ triết học Aristôte, mà là triết học hiện sinh

[50] Schillebeeckx, Christus Sakrament der Gottbegegnung, Mainz, 1960, 73; 84; 89.

[51] Joseph Martos, Cửa Vào Thánh Thiêng, t.1, tr. 204.

[52] Lumen Gentium, số 1

[53] Théodule Rey-Mermet, Sống Đức Tin trong Các Bí Tích, tr. 42.

[54]Edward Schillebeeckx, Đức Kitô, Bí tích của cuộc gặp gỡ Thiên Chúa (Nxb Sheed và Ward, 1963), là một trình bày rõ ràng của nền thần học tại Anh.

[55] Joseph Martos, Cửa Vào Thánh Thiêng, t.1, tr. 206.

[56] Joseph Martos, Cửa Vào Thánh Thiêng, t.1, tr. 206.

[57] Joseph Martos, Cửa Vào Thánh Thiêng, t.1, tr. 207.

[58]Xem A. Dulles, Models of the Church, Garden City, N.J., 1974.

[59] Bernard Haring, Tự do và trung thành trong Đức Kitô, tập 3, tr. 336.

[60]Xem B. Haring, The Sacraments in a Secular Age, Slough, 1976, 93-179.

[61] Bernard Haring, Tự do và trung thành trong Đức Kitô, tập 3, tr. 337.

[62] Bernard Haring, Tự do và trung thành trong Đức Kitô, tập 3, tr. 339.

[63]S. Th., III, q 61, a 4.

[64] Hiến Chế về Phụng Vụ, 59

[65] Bernard Haring, Tự do và trung thành trong Đức Kitô, tập 3, tr. 339.

[66] Bernard Haring, Tự do và trung thành trong Đức Kitô, tập 3, tr. 340.

[67] Bernard Haring, Tự do và trung thành trong Đức Kitô, tập 3, tr. 341.

 


Mục Lục Năm Đức Tin

Nhân Năm Đức Tin nghĩ về đặc tính Bí tích nơi người Kitô hữu

Trong kinh nghiệm cuộc sống dân gian, người ta thường nói “giỏ nhà ai, quai nhà nấy” để chỉ về người đó thuộc gia đình, tầng lớp và địa vị nào trong xã hội,… Với người Công giáo, chúng ta mang trong mình hình ảnh Đức Kitô ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, để từ đó, chúng ta trở nên người Kitô hữu, là người thuộc về Đức Kitô, và được mời gọi trở nên giống Ngài. Vậy tại sao lại có sự biến đổi đó? Kinh nghiệm của ta về sự thay đổi đó như thế nào? Xin được dựa trên nền tảng thần học của Thánh Tôma Aquino để làm sáng tỏ đặc tính Bí tích nơi người Kitô hữu.

1. Đặc tính Bí tích

Nếu nói “Bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng do Chúa Kitô thiết lập, và được trao lại cho Giáo Hội để ban sự sống thần linh cho chúng ta”1, thì đặc tính Bí tích là một cái gì đó sâu xa bên trong linh hồn không thể xoá nhoà. Đặc tính ấy là thường hằng, là cái sẽ tồn tại muôn đời, sẽ không thể bị đánh mất.Nếu các Bí tích là “cửa vào thánh thiêng”, thì đặc tính Bí tích chính là một sự thay đổi sâu xa và lưu lại mãi mãi trong linh hồn người ta khi đã vào cửa thánh thiêng đó. Như vậy, việc lãnh nhận các Bí tích nhờ sự biến đổi của Đức Kitô, người Kitô hữu được sinh vào trong chiều kích mới, chiều kích của sự hiện hữu, nghĩa là chiều kích của Thiên Chúa, một sự hiện hữu mà Chúa Kitô đã sống suốt cuộc đời trần thế của Ngài.3

2. Kitô hữu là người đồng hình đồng dạng với Đức Kitô nhờ đặc tính Bí tích 

Như đã nói, đặc tính Bí tích chính là một sự thay đổi sâu xa từ bên trong, làm cho con người đó chung phần sự sống thần linh với Thiên Chúa thông qua Đức Giêsu. Đặc tính Bí tích còn làm cho ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô nhờ được dìm vào trong một khuôn đúc mới, để xuất hiện trong một hình ảnh mới, hình ảnh của chính Đức Kitô, Đấng đã yêu mến và vâng phục Cha.4 Vậy hình ảnh mới là gì?

Trước khi nói đến một hình ảnh mới trong Đức Kitô, chúng ta nói đến một hình ảnh cũ, hình ảnh của một con người thuần tuý.

Con người của chúng ta mang nặng những ám ảnh bởi tội lỗi do nguyên tổ gây nên (x. St 3,8-15). Mặt khác, những hệ luỵ của tội (x. St, 3,16-24) đã làm cho con người ưa chiều theo sự tội (x. St 4,1-16) và làm nô lệ cho nó, đó là thời Cựu Ước. 

Sang thời Tân Ước, khi Đức Kitô đã nhập thể và trở nên Đấng Emmanuel (x. Lc 2,1-17) thì con người chúng ta được giao hoà lại với Thiên Chúa và được Người canh tân, đổi mới, để trở nên giống Người thông qua các Bí tích. Khi chúng ta được dìm vào nước thánh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới… Từ nay trong ta có Thiên Chúa và trong Thiên Chúa có ta, ta và Thiên Chúa cùng chung nhau một dòng máu thông qua Đức Giêsu5 (x. Ga 15,1-8; 17,20tt), bởi lẽ con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, được cùng chết và mai táng với Ngài, thì chúng ta cũng được cùng sống lại với Ngài như Ngài đã sống (x. Rm 6,3-11). 

Như vậy, hình ảnh mới là hình ảnh tái sinh để trở nên giống Đức Kitô, chiều kích mới là qua Đức Giêsu, nơi các Bí tích, chúng ta được sống trong Thiên Chúa. Khi đã trở nên giống Ngài, chúng ta noi gương để sống trọn vẹn trong Thiên Chúa như Ngài đã sống. Vậy sống như Ngài chính là quy chiếu tất cả mọi thành công (x. Mt 11,25-27), thất bại (x. Ga 12,28) về Thiên Chúa, không dừng lại ở chính mình. 

Như vậy, tuyên bố của Thánh Tôma khi nói “đặc tính Bí tích giống như dìm mình vào trong một khuôn đúc mới, để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh Đức Kitô” thực sự là một quan điểm mới về Bí tích. Ngài đã sử dụng triết học của Aristote để làm nổi bật lên được sức mạnh của đặc tính Bí tích. Đặc tính ấy chính là một ấn tín thiêng liêng bên trong linh hồn không thể xoá nhoà, đó là một sức mạnh trường cửu. Đặc tính ấy ta không thể thấy được, nhưng ta vẫn có thể biết được nhờ việc lãnh nhận các Bí tích. Khi tuyên bố như thế, Thánh Tôma đã khai mở cho các nhà nghiên cứu phê bình một lối nhìn mới về Bí tích và những đặc tính của nó, đồng thời cũng giúp cho mỗi người chúng ta ý thức về sự biến đổi siêu nhiên từ bên trong của các Bí tích.6 Theo Tôma, hình ảnh mới là hình ảnh của Đức Kitô, Ngài luôn làm theo ý Đấng đã sai mình, mọi vinh quang danh dự đều thuộc về Cha thì đến lượt chúng ta, khi lãnh nhận các Bí tích, chúng ta được trao phó nhiệm vụ liêng liêng để phụng tự Thiên Chúa, đồng thời cũng phải trao truyền cho kẻ khác những điều liên quan đến việc thờ phượng Thiên Chúa, và đây là điều đặc biệt của ấn tích nơi các Bí tích mà Thánh Tôma đã đề cập tới.

3. Những áp dụng cụ thể để giữ lại hình ảnh Đức Kitô trong mình

Trong hành trình đời tu, hay đời thường, người ta sợ nhất 2 điều. Một là sự cô đơn và hai là sự nhàm chán trong công việc. Nhưng nếu không cô đơn thì sự nhàm chán kia cũng khó có thể vùng vẫy trong tâm hồn được. Chiều dài thời gian nó làm cho con người ta cảm thấy chán trường và mệt mỏi, đồng thời nó cũng làm cho ta cảm thấy mọi chuyện trở thành bình thường, nhất là việc đạo đức, và nó sẽ làm cho nhiều người mất niềm hy vọng, không còn tin vào những chuyện thánh thiêng mình cử hành nữa. Sống trong tình trạng tâm hồn trống rỗng, không có kinh nghiệm về Thiên Chúa trong cuộc đời và qua các cử hành phụng vụ, ta sẽ cảm thấy mình cô đơn, hoang mang về niềm tin cũng như hy vọng của mình nơi Chúa và các công việc bổn phận mình làm.

Ước gì những công việc đạo đức hằng ngày như: tham dự Thánh lễ, cử hành các giờ kinh Phụng vụ, Bí tích và các việc đạo đức… ta hãy làm mới lại trong cung cách cử hành, nhờ lòng mến thúc đẩy, có thế, ta sẽ không bị rơi vào sự trống vắng ngay trong những mầu nhiệm mà ta cử hành hằng ngày. 

Mong thay, trong Năm Đức Tin này, mỗi người hãy làm mới lại hình ảnh của Đức Kitô, một Đức Kitô luôn làm theo ý Cha, bởi vì “lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy”, đồng thời luôn giữ lại hình ảnh của Đức Kitô cách sống động trong cuộc đời của ta qua các cử hành Phụng vụ cũng như trong đời sống thường ngày như một lời chứng về sự hiện diện của Chúa. Sống được như vậy, ta có thể nói: Cuộc đời Kitô hữu của mình như là một Bí tích giữa Thiên Chúa và con người và đặc tính Bí tích giống như dìm mình vào trong một khuôn đúc mới, để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh Đức Kitô Phục Sinh. 

—————–

1 x. Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1113-1130.

2 Lm. Đa Minh Nguyễn Đức Thông, CssR. Điểm hẹn Thần linh, Biên soạn 2007, tr. 101.

3 Joseph Martos, Cửa vào Thánh thiêng, tập 1, tr. 113.

4 x. William Bausch, Một lối nhìn mới về Bí tích, tr. 35.

5 Khi chúng ta rước Mình và Máu Chúa, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa nơi Bí tích Thánh Thể. Bởi vì Bí tích Thánh Thể là chính Chúa Giêsu, mà Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa. Khi ta rước lấy Chúa Giêsu Thánh Thể thì cũng là đón nhận Bản Thể Thiên Chúa trong linh hồn ta thật. Như vậy, Thiên Chúa ở trong ta và ta ở trong Thiên Chúa.

6 x. Lm. Đaminh Nguyễn Đức Thông, CSsR. Điểm hẹn Thần linh, tr. 102-103.

7 x. Bearbeitet von Gunter Koch, Bí tích học qua các tác giả, tr. 105-106.

Jos.Vinc. Ngọc Biển

(emty.org Cập nhật: 19/11/2012 – 02:25:29)

 


Mục Lục Năm Đức Tin

 

ĐỨC TIN KITÔ GIÁO. CÁC CHIỀU KÍCH VÀ ĐẶC TÍNH QUY KITÔ

(giaolyductin.net 06/09/12, 11:30 pm)

Bài viết này thể hiện mong muốn đáp lại lời Đức Giáo Hoàng Bênêđettô mời gọi các tín hữu gia tăng “suy tư về chính hành vi đức tin” (Porta Fidei, 9). Có nhiều vấn đề cần phải đào sâu để hiểu hơn về đức tin như: đức tin là ân sủng nhưng đồng thời cũng là hành vi nhân linh, đức tin là chắc chắn nhưng cũng gắn liền với “đêm tối”, tính cá vị và tính cộng đoàn của đức tin, diễn tả đức tin bằng ngôn ngữ và bằng hành động, v.v… Với đề tài được đưa ra là nói về đức tin Kitô giáo trong tương quan với Đức Kitô – Đấng là nền tảng và điểm quy chiếu của đức tin đó – người viết bài này chỉ xin trình bày ba chiều kích liên hệ tới lý trí, tâm cảm và thực hành (nói tắt và nôm na là biết, cảm, sống) của đức tin và cho thấy Đức Kitô là nguyên lý của đức tin Kitô giáo thế nào trong ba chiều kích đó.

Việc chọn trình bày ba chiều kích trên của đức tin phát xuất từ thực tế là đa số tín hữu Việt Nam gặp khó khăn trong việc xác định thế nào là đức tin đích thực. Phải chăng việc ta học thuộc các kinh, nắm vững các giáo lý là dấu chỉ cho thấy đức tin của ta đã mạnh mẽ rồi? Phải chăng ta có thể yên tâm về đức tin của mình khi ta dạt dào cảm xúc yêu mến Chúa hay có thể khóc vì nhận ra tình yêu của Ngài? Hoặc ngược lại, phải chăng việc giữ đạo quan trọng là ở cái tâm, chỉ cần có cái tâm ngay thẳng, bác ái là đủ, việc đi nhà thờ, đọc kinh, học giáo lý chỉ là hình thức bên ngoài, thậm chí là còn có ảnh hưởng xấu là làm cho người ta “chấp nê” mà quên đi cái cốt lõi?

Việc chưa hiểu rằng đức tin bao gồm cả ba chiều kích biết, cảm, sống còn được thể hiện qua khoảng cách thường thấy giữa việc tin và sống theo những gì mình tin. Tại sao có người đi nhà thờ thường xuyên, đọc thuộc nhiều kinh mà về nhà lại là hung thần của gia đình và của hàng xóm? Tại sao trong kỳ tĩnh tâm, tôi cảm thấy dạt dào lòng yêu mến Chúa và quyết tâm cách rất xác tín mà sau kỳ tĩnh tâm tôi mắc lại các thói xấu và không thể kiểm soát những cảm xúc tiêu cực như tham lam, ganh ghét, nóng giận của mình? Nên chăng tôi chỉ cố gắng sống công bình, bác ái, dấn thân vào các hoạt động xã hội là đủ, mà không cần hoặc lơ là việc đi lễ, đọc kinh và học giáo lý?

Bài viết sẽ cố gắng trả lời các vấn nạn đó bằng cách chỉ ra, trong phần I, rằng đức tin không chỉ là hoạt động của lý trí (theo kiểu “tôi tin là ngày mai trời mưa”) hay của tâm cảm (theo kiểu “tôi thấy rất tin tưởng anh”), mà bao gồm cả hai, cùng với chiều kích thực hành.

Trong phần II, bài viết sẽ trình bày Đức Kitô cung cấp nét độc đáo cho đức tin Kitô giáo như thế nào trong ba chiều kích nói trên.

I. Ba chiều kích của đức tin Kitô giáo

Thông thường, chúng ta hay quan niệm rằng đức tin là tin một điều gì đó, tức giới hạn đức tin vào hoạt động của tâm trí mà thôi. Quan niệm này không sai, nhưng chưa đủ, và vì thế có thể gây ra một số lệch lạc trong việc sống đạo. Nếu đức tin chỉ là tin một điều gì đó thì để trẻ em hoặc người tân tòng có đức tin, chỉ cần dạy họ thuộc kinh hoặc biết các chân lý đức tin là đủ. Thông truyền đức tin dưới dạng kiến thức dẫn đến tình trạng là tín hữu biết các điều Giáo Hội dạy nhưng chưa hẳn là yêu mến những giá trị của chúng. Họ xem những điều dạy đó chủ yếu như là luật lệ và cố gắng tuân giữ, nhưng cảm thấy như gánh nặng. Thực hành tôn giáo vì thế được gói gọn trong việc chu toàn nghĩa vụ cách sáo rỗng và vụ hình thức.

Để hiểu đức tin là gì, ta cần đặt đức tin trong tương quan với Mặc Khải. Vì đức tin là hành vi đón nhận Mặc Khải, nên ta chỉ hiểu đức tin là gì nếu ta có quan niệm đúng đắn về bản chất của Mặc Khải. Công đồng Vatican II nói về Mặc Khải như sau:

Do lòng nhân lành và khôn ngoan, Thiên Chúa đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho biết mầu nhiệm của ý muốn Ngài (x. Ep 1,9);… Vậy qua việc mặc khải này, Thiên Chúa vô hình (x. Cl 1,15; 1 Tm 1,17), do tình thương chan hòa của Ngài, đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu (x. Xh 33,11; Ga 15,14-15) và liên lạc với họ (x. Br 3,38) để mời gọi họ và chấp nhận cho họ đi vào cuộc sống của chính Ngài[1]

Như vậy, Mặc Khải trước hết và trên hết là việc Thiên Chúa đi bước trước đến với con người, ngỏ lời và trao ban chính Mình để thiết lập tương quan bằng hữu với họ; cùng với món quà “Tự Thân” đó là các chân lý diễn tả ý muốn cứu độ của Ngài.

Công đồng cũng nói về đức tin như sau:

Phải bày tỏ “sự vâng phục bằng đức tin” (Rm 16,26; x. Rm 1,5; 2 Cr 10,5-6) đối với Thiên Chúa, Đấng mặc khải. Nhờ sự vâng phục đó, con người tự do ký thác mình trọn vẹn cho Thiên Chúa bằng cách “dâng lên Thiên Chúa, Đấng mạc khải, sự quy phục trọn vẹn của lý trí và ý chí” [5], và bằng cách tự ý ưng thuận mặc khải Ngài đã ban[2].

Vậy đức tin trước hết là phó thác bản thân mình cho Thiên Chúa và sau đó là tự do chấp nhận những điều Ngài truyền dạy.

Một cách nôm na, có thể mô tả Mặc Khải như hành vi và tiến trình Thiên Chúa “tặng quà” cho con người và đức tin là hành vi và tiến trình con người “nhận quà” từ Thiên Chúa[3]. Khi phân tích hiện tượng trao tặng và nhận quà, chúng ta thấy rằng hiện tượng này luôn hàm chứa một tương quan liên vị. Một vật chỉ là quà tặng khi ở trong một mối tương quan liên vị giữa người tặng và người nhận[4]. Người tặng quà, qua món quà, mà thường thì có ý nghĩa biểu trưng lớn hơn chức năng hữu dụng, trước hết muốn diễn tả tâm hồn mình và khao khát muốn thiết lập tương quan yêu thương với người được tặng. Nói cách khác, món quà biểu trưng cho việc người tặng quà muốn trao ban chính tâm hồn mình. Tuy nhiên, món quà cũng đóng vai trò quan trọng vì là một sự diễn tả không thể thiếu của tấm lòng người tặng. Không ai có tấm lòng ưu ái với người khác mà không tự nhiên bộc lộ ra hay tìm những cách thế khác nhau để diễn tả tấm lòng đó[5].

Người nhận quà cũng vậy, khi quyết định nhận món quà là đã quyết định nhận tấm lòng của người tặng và do đó cũng đã mở lòng mình ra, chấp nhận thiết lập tương quan với họ, tức chấp nhận cho họ đi vào cuộc đời mình. Như vậy, người nhận quà cũng thực sự đã mở ra và cho đi – cho đi chính tâm hồn mình. Người không muốn cho đi không thể nhận quà. Tương tự như đối với người tặng, món quà cũng rất quan trọng đối với người nhận. Người nhận chỉ thực sự đón nhận tấm lòng người tặng nếu chấp nhận đón lấy món quà. Khi họ chấp nhận tương quan với người tặng thì họ cũng chấp nhận món quà người ấy tặng. Món quà trở nên biểu tượng thiết yếu của tương quan giữa họ với nhau[6].

Để có một cái nhìn loại suy về đức tin như hành vi “nhận quà”, chúng ta tóm kết lại các đặc tính của tiến trình nhận quà như một hiện tượng nhân sinh: người nhận quà, khi nhận món quà (2), phải mở lòng mình ra để đón nhận tấm lòng của người tặng (1); sau khi nhận quà, người đó được biến đổi nên khác (3), vì cuộc đời họ không như xưa nữa mà đã có sự hiện diện của và tương quan ở cấp độ mới với một nhân vị mới.

Ta cũng có thể tìm thấy ba đặc tính trên nơi hành vi đức tin của Kitô hữu (các đặc tính được đánh số 1,2 và 3 lần lượt tương ứng với chiều kích tâm cảm, lý trí và thực hành của đức tin). Trở lại đối chiếu với định nghĩa của công đồng Vatican II về Mặc Khải và về đức tin, ta có thể nói rằng đức tin trước hết là mở lòng mình ra đón nhận quà tặng là chính Thiên Chúa trao ban chính Mình, tức sẵn lòng đi vào trong tương quan mà Thiên Chúa thiết lập và mời gọi con người có với Ngài. Một cách loại suy, có thể nói, như trong trường hợp quà tặng, chỉ có đức tin khi có tương quan liên vị giữa Thiên Chúa và con người[7]. Việc mở lòng, chấp nhận đi vào trong tương quan liên vị với Thiên Chúa như thế mang đồng thời ba chiều kích tương ứng với ba đặc tính nêu trên của việc nhận quà.

1. Chiều kích tâm cảm

Đặc điểm dễ thấy nhất của tương quan liên vị là có một mối thân tình giữa những người liên quan, họ mở lòng, đón nhận và tin tưởng nhau. Đức tin, trong bối cảnh tương quan liên vị giữa Thiên Chúa và con người, cũng mang đặc tính này. Tín hữu cảm nghiệm thấy được Thiên Chúa ngỏ lời mời gọi thương yêu và tin tưởng và vì thế đáp lại bằng tâm tình phó thác yêu thương.

Đức tin trong chiều kích này có thể được diễn tả bằng hai chữ “tin vào”. Như trong tương quan giữa người với người, khi tin vào ai, chúng ta cảm thấy an toàn khi ở bên họ, đức tin trong chiều kích này làm cho con người “tìm đến nương ẩn” bên Thiên Chúa (Tv 7,1; 31,1), giao phó bản thân “trong vòng tay Ngài” (x. Lc 23,46; Lời cầu nguyện của Charles de Foucauld).

Đây là lý do truyền thống gọi đức tin là nhân đức đối thần. Vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể là đối tượng của đức tin trong chiều kích này, mới đáng là Đấng để ta tin vào và đặt để đời mình trong tay Ngài mà chắc chắn không bị thất vọng. Kinh Tin Kính đã diễn tả điều này khi dùng động từ “tin vào” (credo in) cho các tín khoản liên quan tới từng Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, không như các tín khoản khác vốn dùng động từ “tin có” (credo) hoặc “tuyên xưng” (confiteor), “trông chờ” (expecto).

2. Chiều kích lý trí

Nhưng việc phó thác bản thân cho Thiên Chúa hàm chứa việc biết Thiên Chúa là Đấng thế nào (yêu thương, đáng tin, v.v…) và xác nhận Ngài là Chủ Tể của vạn vật và của đời mình. Không ai có thể đặt niềm tin tưởng vào Đấng mà họ không biết. Vì thế, đức tin luôn mang chiều kích lý trí. Khi tin, chúng ta luôn chấp nhận một điều gì đó khách quan – một sự kiện hoặc một ý nghĩa – là đúng.

Hơn nữa, cũng như khi tin tưởng ai thì ta cũng tin những điều họ nói là đúng, việc phó thác bản thân cho Thiên Chúa luôn hàm chứa và đi đôi với việc chân nhận những điều Ngài truyền dạy là chân lý. Đức tin không chỉ là cảm xúc mơ hồ không có hoặc không thể được diễn tả bằng một nội dung khách quan. Đức tin cũng không chỉ là chuyện riêng tư, bên trong tâm hồn mỗi người mà, vì có nội dung khách quan, cần được “tuyên xưng, cử hành, sống và cầu nguyện” (Porta Fidei, 9).

Chính vì điều này mà các giáo phụ nói về “kho tàng đức tin” hay “quy luật đức tin”[8]. Kho tàng hay quy luật này được tìm thấy trong Thánh Kinh, trong giáo lý và đời sống của Giáo Hội, có thể được lưu truyền, công bố, giảng dạy và học hỏi. Cũng như món quà là biểu tượng thiết yếu của tương quan giữa người tặng và người nhận, kho tàng đức tin được lưu truyền và diễn tả bằng ngôn ngữ, cử hành và các hình thức tổ chức trong đời sống Giáo Hội đóng vai trò không thể thiếu trong tiến trình đức tin. Kho tàng này chứa đựng những “món quà” thiết yếu cho mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người. Con người không thật sự đón nhận Thiên Chúa, không thật sự tin tưởng và phó thác bản thân cho Ngài nếu không đón nhận những “món quà” khách quan này.

3. Chiều kích thực hành

Cuối cùng, đức tin đích thực luôn có và phải có chiều kích thực hành. Đức tin không chỉ là hoạt động của tâm trí hay rung cảm của tâm hồn, mà là hành vi nhân linh liên hệ tới toàn bộ con người. Liên quan tới chiều kích này, chúng ta thường hiểu cách đúng đắn rằng đức tin đích thực phải dẫn tới việc sống đức tin đó cách cụ thể trong đời sống. Nhưng ở đây chúng ta cũng cần phải xác định xa hơn rằng chính hành động cụ thể góp phần vào việc hình thành và củng cố đức tin, bằng cách cộng tác với ơn Chúa, chứ không chỉ là hệ quả của đức tin.

Karl Rahner có thể giúp ta hiểu hơn điều này khi ông nói về ý chí. Khi ta thực hiện điều ta muốn thì ý chí được diễn tả chính nó và trở thành xác định. Vậy điều ta thực hiện đó không chỉ là kết quả của ý muốn mà còn là nguyên nhân sinh ra ý muốn đó. Bởi vì ý muốn đó sẽ không tồn tại cách nghiêm túc và bất khả thu hồi nếu nó không được thực hiện[9]. Nói cách khác, ta chưa thật sự muốn một điều gì đó nếu chưa thực hiện điều đó.

Tương tự, hành vi đức tin chỉ thực sự xác định và chín muồi khi được thực hành trong cuộc sống. Các tri thức học được về đạo, các tâm tình sốt mến chỉ đạt được độ chín muồi khi chúng được kéo dài và diễn tả trong cuộc sống. Nói cách khác, chúng ta chỉ thực sự biết Chúa và chỉ thực sự yêu Ngài khi sống theo lời Ngài dạy. Như vậy, hành vi đức tin diễn ra không chỉ khi ta đọc kinh hoặc cầu nguyện sốt sắng, mà cả khi ta thực hành những quyết định cụ thể. Việc cố gắng giữ mình khỏi lỗi phạm một điều Chúa dạy là sự kéo dài tâm tình của giờ cầu nguyện trước đó và có giá trị tương đương như một lời cầu nguyện.

Tóm lại, nếu hiểu hành vi đức tin bao gồm đồng thời cả ba chiều kích biết, cảm, sống thì ta sẽ hiểu tại sao học thuộc giáo lý mà thiếu tâm tình yêu mến Chúa (chiều kích 1) thì cũng chưa phải là có đức tin đích thực. Tương tự, dạt dào cảm xúc yêu mến mà chưa thực hiện điều Chúa dạy (chiều kích 3) thì cũng chưa thực sự yêu mến Chúa trong đức tin, mà chỉ mới yêu Chúa với cảm xúc nhân loại chóng qua. Và cuối cùng, việc có cảm xúc dạt dào hoặc thực hành đúng đắn lời Chúa dạy không miễn cho ta khỏi phải học hỏi các chân lý đức tin và tham gia vào đời sống Giáo Hội (chiều kích 2), mà ngược lại, luôn giả định, đi đôi và dẫn đến điều đó[10].

II. Đức Kitô – căn tính độc đáo của đức tin Kitô giáo

Những điều nói ở trên liên quan đến hành vi con người đáp lại lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa là những đặc tính chung của nhiều hình thức đức tin kể cả ngoài Kitô giáo, nên chưa nói gì về tính độc đáo của đức tin Kitô giáo.

Chúng ta chỉ có thể nhìn rõ căn tính độc đáo của đức tin Kitô giáo và nhờ thế hiểu hơn về đức tin đó nếu nhìn vào Đức Kitô. Trong phần này chúng ta sẽ tìm hiểu Đức Kitô cung cấp căn tính cho đức tin Kitô giáo như thế nào bằng việc khảo sát vai trò độc đáo của Ngài liên quan tới ba chiều kích nói trên của đức tin.

1. Chiều kích tâm cảm – Đức Kitô làm cho đức tin khả dĩ xảy ra

Trong hành vi đức tin, cũng như các tín hữu của các hình thức đức tin khác, Kitô hữu yêu mến phó thác bản thân mình cho Thiên Chúa; nhưng khác với quan điểm và tâm tình của họ, Kitô hữu tín thác vào một Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô. Thiên Chúa của Kitô giáo không chỉ là một thực tại siêu việt, huyền bí và nội tại trong cõi sâu thẳm của lòng người nhưng còn làm người trong lịch sử, nơi Đức Kitô Giêsu thành Nagiaret. Vì thế, đức tin Kitô giáo, trong chiều kích tâm cảm, không chỉ là phó thác thân phận thụ tạo giới hạn của mình cho Đấng Toàn Năng Siêu Việt ở ngoài thế giới này, mà còn là chấp nhận đi vào trong tương quan cá vị, là yêu mến và phó thác bản thân cho Đức Kitô – một Đấng đã sống trong lịch sử nhân loại, đã chết và đang sống trong vinh quang Phục Sinh.

Điều này nói lên căn tính độc đáo của đức tin Kitô giáo, vì Đức Kitô, tuy là một Ngôi Vị Thiên Chúa, có thể tương quan với con người trong mức độ nhân loại. Ngài đến với chúng ta trong tư cách là Thiên Chúa nhưng cũng như (không phải “giống như”) một con người. Ngài yêu chúng ta bằng tình yêu Thiên Chúa nhưng với một trái tim nhân loại và Ngài cũng có thể là đối tượng của tình cảm nhân bản của chúng ta, cũng như của những tiếp cận trên bình diện lịch sử của chúng ta.

Hệ quả là, đức tin Kitô giáo, trong chiều kích tâm cảm, tự bản chất hàm chứa một mối căng thẳng và liên hệ biện chứng giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân loại. Thiên Chúa đã làm người để có thể yêu chúng ta bằng một trái tim nhân loại, nên đã làm cho tình yêu nhân loại của chúng ta có khả năng hướng tới Thiên Chúa và tham gia vào tính chất thần linh của tình yêu của Ngài. Điều này thật sự khả dĩ và đã xảy ra nơi Đức Kitô. Trong nhân tính của mình, Ngài đã yêu mến Cha bằng trái tim nhân loại, và vì thế, đã thăng hoa tình yêu đó, làm cho nó tham dự vào mối Hiệp Thông thần linh giữa Ba Ngôi.

Vì thế, khi yêu mến Đức Kitô trong đức tin, chúng ta không yêu Ngài như yêu một Siêu Ngã, nhưng cũng không đơn thuần như một người khác. Tình yêu nhân loại của chúng ta dành cho Ngài, trong đức tin, đã được nâng lên một tầm cấp khác, có khả năng trở thành “đối tác”, đáp lại Tình Yêu đi bước trước của Thiên Chúa. Điều này giải thích khả thể của đức tin nói chung và của đức tin Kitô giáo nói riêng. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người nơi Đức Kitô đã cung cấp câu trả lời cụ thể dứt khoát cho câu hỏi “Thiên Chúa là Đấng Siêu Việt trong khi con người là thụ tạo giới hạn, làm sao mà con người có thể trở thành ‘đối tác’ của Thiên Chúa trong hành vi đức tin được?”

2. Chiều kích lý trí – Đức Kitô quy định nội dung và hình thức diễn tả đức tin

Trong chiều kích lý trí, đức tin Kitô giáo nhận biết Thiên Chúa là ai và chấp nhận những điều Ngài dạy bảo, nhưng tất cả những điều đó phải có nội dung như Đức Kitô đã mặc khải bằng lời dạy và lối sống của Ngài. Mà nội dung của lời dạy và lối sống của Đức Kitô thì có thể được xác định khá rõ ràng và cụ thể: Ngài hiện thực hoá và rao giảng về Nước Trời, Ngài tương quan với Thiên Chúa như Cha của Ngài, Ngài sống một cuộc sống vị tha mà tột đỉnh là cái chết trên thập tự giá. Như vậy, nội dung đức tin Kitô giáo không bắt nguồn từ một hệ thống suy lý nào, cũng không được rút ra từ một nguyên lý phổ quát nào, nhưng bị quy định, một cách “võ đoán”, bởi chính lời dạy và lối sống đặc thù của Đức Kitô[11].

Nội dung đặc thù này của đức tin Kitô giáo luôn cần phải được diễn tả trong tuyên xưng, cử hành và cầu nguyện, và chính Đức Kitô cũng cung cấp tiêu chuẩn cho việc diễn tả này. Mọi khẳng định cũng như tuyên bố thần học, mọi cử hành phụng vụ và cả các hình thức cầu nguyện đều lấy Đức Kitô làm trung tâm và bị quy định bởi lời dạy và lối sống của Ngài.

Để thấy rõ Đức Kitô quy định các hình thức diễn tả đức tin Kitô giáo thế nào, chúng ta chỉ cần xét vấn đề về vai trò của ngôn ngữ trong kinh nghiệm đức tin. Theo Gadamer, ngôn ngữ là trung gian của kinh nghiệm và là phương tiện để chúng ta hiểu thế giới[12]. Vậy kinh nghiệm đức tin luôn phải mang chiều kích ngôn ngữ. Hay nói cách khác, chúng ta luôn cần tới ngôn ngữ để có thể có kinh nghiệm đức tin đích thực, đó là chưa đề cập đến việc phải diễn tả và truyền thông kinh nghiệm đó cho người khác. Vấn đề đặt ra là chúng ta dùng thứ ngôn ngữ nào trong kinh nghiệm của đức tin. Chính ở đây mà chúng ta thấy vai trò thiết yếu của Đức Kitô – Đấng là Ngôi Lời – đối với kinh nghiệm đức tin Kitô giáo.

Ngôn ngữ con người mang tính lịch sử và bị ảnh hưởng – kể cả theo nghĩa xấu, tức bị nhuốm bẩn, trở nên hàm hồ, thô tục – bởi não trạng văn hoá và các cảnh huống xã hội. Vì thế, nếu kinh nghiệm đức tin được tiếp cận và diễn tả qua trung gian một thứ ngôn ngữ hàm hồ, mang nặng ảnh hưởng của tội thì chính kinh nghiệm đức tin cũng bị bóp méo và tha hoá. Ngôn ngữ con người có thể là biểu hiện của cái tôi đầy tham vọng bá chủ và ước muốn vận dụng, điều khiển những cái khác ngoài mình. Chính Đức Kitô – Lời đích thực – sẽ cung cấp cho kinh nghiệm đức tin một ngôn ngữ tinh tuyền, phù hợp và xứng đáng với kinh nghiệm đó. Ngài là Ngôn Ngữ của Thiên Chúa đã “hoá ra không” (Pl 2,7) để “trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Ngài là hiện thân cho ngôn ngữ của tương quan liên vị, yêu thương và cho đi.

3. Chiều kích thực hành – Đức Kitô chịu đóng đinh là lý tưởng cốt lõi của đời sống đức tin

Đức tin Kitô giáo nhất thiết phải được diễn tả, không chỉ trong thần học, tuyên xưng, cử hành và cầu nguyện mà còn trong cuộc sống. Vậy đâu là những đặc tính của lối sống Kitô hữu? Có sự khác biệt thiết yếu nào giữa Kitô hữu và tín hữu các đạo khác không? Phải chăng Kitô hữu cũng giống các tín hữu theo các niềm tin khác trong việc “ăn ngay ở lành” mà thôi?

Chúng ta phải khẳng định rằng lối sống của con người có sự khác biệt tuỳ thuộc vào việc họ tin hay không tin vào Đức Kitô. Và chúng ta chỉ thấy được sự khác biệt đó khi ý thức về tầm quan trọng của Đức Kitô đối với đức tin Kitô giáo.

Trước hết, lối sống Kitô hữu được rập khuôn theo lối sống đặc thù của Đức Kitô, Đấng đã sống trong lịch sử này. Ngài không chỉ luôn sống vì người khác – như bao vị thánh nhân khác trong lịch sử loài người – nhưng còn luôn vâng phục Ý Cha. Toàn bộ cuộc sống, mọi ý nghĩa và hành vi của Ngài được nuôi sống và thúc đẩy chỉ bởi một động lực duy nhất là Thánh Ý của Thiên Chúa mà Ngài tương quan như Cha. Chính vì vâng phục Cha mà Ngài sống xả thân vì người khác và vì nhân loại nói chung. Tình yêu thương đồng loại của Đức Kitô có nguồn gốc và động lực thần linh, bắt nguồn và tham dự vào Tình Yêu vĩnh cửu giữa Cha với Ngài.

Chính vì thế mà lối sống Kitô hữu, vốn cũng được đóng ấn bằng tình yêu thương nhân loại, mang một nét rất độc đáo, vì có nguồn gốc và động lực thần linh: chúng ta yêu thương người khác là bởi vì chúng ta yêu mến Đức Kitô và vì họ là hình ảnh của Ngài (Mt 25, 31-46). Tình yêu thương phải mang đặc nét này thì mới được gọi là tình yêu thương Kitô giáo. Câu hỏi được đặt ra là, khi yêu thương người khác vì Đức Kitô như vậy thì ta có yêu thương họ thật sự vì lợi ích của chính họ không hay chỉ dùng họ như bình phong để yêu mến Đức Kitô? Câu trả lời đã được gợi ý trong phần nói về vai trò của Đức Kitô đối với đức tin Kitô giáo trong chiều kích tâm cảm. Tình yêu thương Kitô giáo không mâu thuẫn, bóp méo hay lạm dụng tình yêu thương nhân loại, mà ngược lại, làm cho nó đích thực hơn, và hơn nữa, nâng nó lên một cấp độ mới hoàn hảo và có giá trị hơn gấp bội. Làm sao ta biết ta yêu thương một người cách hoàn toàn tự do, vô vị kỷ và mang lại lợi ích cho họ[13]? Chính tình yêu đối với Đức Kitô sẽ làm cho tình yêu đồng loại của chúng ta tinh tuyền hơn, thoát khỏi những toan tính của cái tôi quy kỷ và tội lỗi. Tình yêu đối với Đức Kitô cũng bảo đảm rằng khi yêu đồng loại, chúng ta làm điều tốt cho họ và dẫn đưa họ tới hạnh phúc. Vì tình yêu trong đức tin đối với Đức Kitô là tình yêu đã được ân sủng Thiên Chúa nâng lên, được tham dự vào mối Hiệp Thông tràn đầy hạnh phúc, niềm vui và bình an giữa Ba Ngôi Thiên Chúa (x. 1Ga 1,3).

Thứ đến, cũng chính động lực vâng phục Thánh Ý Cha đã mặc cho lối sống của Đức Kitô một hình thức độc nhất vô nhị. Lối sống vì người khác của Ngài không thể được xếp vào bất cứ phân loại nào mà người thời nay có kinh nghiệm. Ngài đã không chữa lành người ta như một bác sĩ, đã không giúp đỡ người nghèo như một nhà làm công tác xã hội, đã không cải hoá xã hội như một nhà cách mạng, đã không chết một cái chết già bình thường, nhưng chết trẻ cách tức tưởi như một tội nhân. Vì vâng phục Cha mà Ngài không chỉ sống vì người khác cách chung chung, nhưng thể hiện lối sống đó bằng những hình thức đặc thù của sự “hoá ra không” (kenôsis – x. Pl 2,7) của Mầu Nhiệm Làm Người: nghèo khó, khiêm hạ, khiết tịnh và đặc biệt là cái chết nhục nhã trên thập tự giá.

Mầu nhiệm “hoá ra không” mà đỉnh cao là cái chết trên Thập Giá làm nên căn tính độc đáo của lối sống Đức Kitô cũng như lối sống Kitô hữu. Kitô hữu không đơn thuần chỉ là những người “ăn ngay ở lành”, mà là những chứng nhân có lối sống được đánh dấu bởi Thập Giá. Làm chứng tá, ngay cả bằng cái chết tử vì đạo (martyr – chứng tá) là tiêu chuẩn không thể thiếu của đời sống đức tin Kitô giáo[14]. Hơn bao giờ hết, trong thời đại trần tục hoá và đa nguyên tôn giáo này chúng ta cần phải ý thức sâu xa hơn đặc nét này của đời sống đức tin Kitô giáo. Kitô hữu khi tìm cách hoà nhập vào xã hội họ đang sống, có nguy cơ bị “hoà tan” đến nỗi hạt muối đức tin của họ không còn mặn nữa (x. Mt 5,13) nếu họ quên đi dấu ấn của Thập Giá trên cuộc sống mình. Chỉ khi ý thức mình là những môn đệ đi theo bước chân của Đức Kitô vác thập giá và chịu đóng đinh thì Kitô hữu mới có đủ động lực và can đảm chịu dèm pha, chịu gạt ra lề để sống sự khác biệt của lối sống Kitô giáo. Chỉ khi đó Kitô hữu mới xác định chắc chắn được căn tính của mình để có thể đi vào cuộc đối thoại  đích thực, chân thành và bình đẳng với các tín hữu của các tôn giáo khác.

Cuối cùng, phải nói rằng, lối sống của Đức Kitô độc đáo không chủ yếu ở hình thức, mà do chính Ngôi Vị Ngài. Không phải cái chết trên Thập Giá làm cho lối sống Đức Kitô trở nên độc đáo, mà ngược lại, chính Ngài – với tư cách là Con Thiên Chúa – làm cho cái chết trên Thập Giá mang đặc tính độc nhất vô nhị – là biến cố nhờ đó Thiên Chúa cứu độ con người. Như vậy, đời sống Kitô hữu có giá trị không chủ yếu vì mang những hình thức giống với lối sống của Đức Kitô, mà vì có Đức Kitô bảo đảm cho có giá trị độc đáo. Kitô hữu là chi thể của Nhiệm Thể Đức Kitô, nên cuộc sống của họ là cuộc sống của Nhiệm Thể, được Đức Kitô đảm nhận, thánh hóa và làm cho có giá trị cứu độ.

Kết luận

Có nhiều cách để tìm hiểu và nhận ra vai trò thiết yếu của Đức Kitô đối với đức tin Kitô giáo. Chúng ta đã làm điều đó bằng cách phân tích ba chiều kích tâm cảm, lý trí và thực hành của đức tin Kitô giáo. Lựa chọn này phát xuất từ mong muốn giải đáp những vấn nạn và hiện trạng thực tế của đời sống Kitô hữu Việt Nam liên quan tới đức tin, cầu nguyện và thực hành đức tin.

Hiểu thấu đáo về ba chiều kích của đức tin sẽ giúp Kitô hữu sống đức tin cách hội nhất và toàn diện hơn. Họ được mời gọi tiếp cận với Chúa cách cá vị hơn, tham gia tích cực và toàn diện hơn vào đời sống và các hoạt động học hỏi, cầu nguyện, phượng tự của Giáo Hội, và cuối cùng là nối dài tâm tình đức tin ra cuộc sống hằng ngày, với xác tín của một môn đệ làm chứng tá cho Đức Kitô chịu đóng đinh.

Tìm hiểu vai trò thiết yếu của Đức Kitô đối với đức tin, Kitô hữu nhận ra căn tính độc đáo của mình cả trong tâm tình tôn giáo, lẫn trong tuyên xưng cũng như cử hành tôn giáo để từ đó có xác tín và can đảm thể hiện lối sống độc đáo của đức tin Kitô giáo trong thực tế xã hội đa tôn giáo và đang ngày càng bị ảnh hưởng bởi trào lưu trần tục hoá.

03.06.2012

Lm Nguyễn Hai Tính, SJ


[1] Hiến Chế Tín Lý về Mặc Khải của Thiên Chúa, 1.

[2] Sđd, 5.

[3] Đây là ý tưởng của Stephen B. Bevans trong cuốn An Introduction to Theology in Global Perspective, New York 2009, xin xem đặc biệt từ trang 23 tới trang 32.

[4] Cũng vật đó, dù được gói gém cẩn thận và đẹp mắt, nhưng khi được chưng trên kệ để bán thì chưa được gọi là quà tặng, mà vẫn chỉ là hàng hóa. Nó chỉ trở thành quà tặng khi có ai đó trao nó cho một người khác như một món quà.

[5] Ví dụ, không ai yêu thật sự mà chỉ để ở trong lòng, mà không có những biểu hiện như ánh mắt, sự ân cần, một bó hoa, v.v…

[6] Ví dụ, không ai chấp nhận lễ hỏi mà từ chối trầu cau.

[7] Như vậy, một cách chính yếu, đức tin không phải là một “kho” mà tín hữu có thể lấy và tích trữ cho mình, mà không cần phải có tương quan cá vị với Thiên Chúa. Nói cách cụ thể, việc học thuộc các chân lý trong kho tàng đức tin mà chưa có tương quan với Chúa trong đời sống thiêng liêng thì chưa được coi là dấu chỉ của đức tin đích thực.

Ở đây cũng cần phải nói thêm rằng tương quan liên vị giữa Thiên Chúa và con người – vốn chỉ có Thiên Chúa đi bước trước và tạo điều kiện khả dĩ cho con người đáp lại – không hoàn toàn giống như tương quan liên vị giữa người với người, vốn mang tính hai chiều. Theo Karl Rahner, Thiên Chúa đến với con người, tự trao ban Chính Mình không chỉ như một món quà, mà còn như một điều kiện cần thiết để làm cho việc con người đón nhận món quà đó có thể xảy ra (X. Foundations of Christian Faith, London 1978, 128).

[8] Thánh Irênê, chẳng hạn, đề cập đến các khái niệm này trong cuốn Adversus Haereses III, ii & iv.

[9] X. K. Rahner & K.H. Weger, Our Chritian Faith, London 1980, 116.

[10] John A. Hardon cho rằng việc học giáo lý là nền tảng cho việc sống chứng tá đức tin cách anh hùng (X. “The Deposit ofFaith and the Catechism” trên trang WebTheReal Presence Associationhttp://www.therealpresence.org/archives/Catechism/Catechism_008.htm truy cập ngày 29.05.2012).

[11] Một ví dụ điển hình là nội dung giáo lý về Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong khi các triết gia Hy Lạp cho rằng Thiên Chúa phải là Đấng duy nhất, vì, một cách suy lý, tự khái niệm Thiên Chúa cho thấy Ngài phải là Đấng duy nhất, nếu không ta sẽ có một khái niệm tự mâu thuẫn nội tại. Á Đông thì dựa vào kinh nghiệm khá phổ quát rằng mọi vật đều được sinh ra từ hai vật khác mang tính âm dương bổ túc cho nhau, nên rút ra kết luận rằng hai Nguyên Lý Âm Dương là nguồn gốc của vũ trụ và mọi loài. Trong khi đó, giáo lý về Thiên Chúa Ba Ngôi chẳng khớp với nguyên tắc suy lý nào, cũng chẳng phù hợp với kinh nghiệm phổ quát nào, mà có vẻ “võ đoán”. Tại sao Thiên Chúa lại là Ba Ngôi mà không phải là bốn hay năm ngôi? Tính chất “võ đoán” này phát xuất từ chính kinh nghiệm và lời dạy của Đức Kitô về Thiên Chúa. Nói cách đơn giản, chúng ta tin Thiên Chúa là duy nhất và là Ba Ngôi vì chính Đức Kitô đã kinh nghiệm,đã dạy như thế và làm cho ta có kinh nghiệm đó về Thiên Chúa.

[12] X. Hans-Georg Gadamer, Truth and Method, New York 1975, 432.

[13] Kinh nghiệm nhân sinh cho ta thấy động lực của tình yêu rất phức tạp. Chúng ta rất nhiều khi yêu thương người khác không phải vì họ, mà vì sắc đẹp, tiền tài,… và phổ thông nhất là vì chính mình. Các bậc cha mẹ cũng có kinh nghiệm là không phải cứ yêu thương con thì sẽ có lợi cho sự giáo dục của con. Bậc cha mẹ phải biết lựa chọn cách thức yêu thương thì mới có thể mang lại lợi ích cho con cái được.

[14] Đây là tư tưởng của Hans Urs von Balthasar, được Eamon Conway đề cập đến trong cuốn The anonymous Christian – a relativised Christianity? Frankfurt am Main1993, 68.

 

 


Mục Lục Năm Đức Tin

Đức tin là gì và phải sống đức tin như thế nào?

Hỏi: Nhân Năm Đức Tin sắp mở ra trong Giáo Hội, xin cha giải thích tầm quan trọng của đức tin trong đời sống Kitô giáo.

Trả lời:

Đức tin là 1 trong 3 nhân đức đối thần hay thần học (Theological Virtue)  nhờ đó chúng ta nhận biết và tin có Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo dựng muôn loài muôn vật trong đó có con người, “được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,27).

Nhưng muốn có đức tin thì trước hết phải có ơn Chúa ban cho như một quà tặng quý giá mà không ai có thể tự sắm cho mình hay nhờ phương thế tự nhiên nào, hoặc học ở trường học nào trên thế giới mà có được đức tin.

Nghĩa là tiên vàn phải là ơn Chúa ban cho ai thì người đó được đức tin. Qua quà tăng này, Thiên Chúa  đã tự mặc khải mình để cho phép ta tin có Chúa, dù không hề trông thấy Người mà vẫn vững chắc tin và sống theo Thánh ý của Người để được chúc phúc và cứu rỗi. Nói khác đi, nếu Thiên Chúa không tự mặc khải Người cho chúng ta thì không bao giờ chúng ta có thể biết Ngài là AI để tin và yêu mến, đúng như Chúa Giêsu đã nói:

Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6,65).

Có nghĩa là không ai có thể biết Chúa Con, nếu Chúa Cha không ban ơn mở trí cho người ấy.

Nơi khác, Chúa Giêsu đã cảm tạ Chúa Cha về ơn mặc khải dành cho những người bé mọn, tức những người thấp hèn như chúng ta mà lại được hạnh phúc  biết Chúa qua đức tin:

Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngượi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, đó là điều đẹp ý Cha” (Mc 10,21).

Như thế, chính nhờ ơn mặc khải đức tin mà chúng ta, những kẻ bé mọn đã nhận được, nên chúng ta mới biết và tin có Thiên Chúa là Cha toàn năng, tin Chúa Ngôi Hai đã xuống trần gian làm Con Người để cứu chuộc cho nhân loại khỏi chết vì tội, cũng như tin Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý và là Đấng ban sự sống.

Đó là Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi (The Holy Trinity), tức Một Thiên Chúa với Ngôi vị riêng rẽ nhưng cùng một bản thể (Consubstantial) và uy quyền như nhau. Mầu nhiệm này đòi hỏi phải có đức tin thì mới chập nhận được, mặc dù không thể giải thích hợp lý theo luận lý (logic) hay bất cứ khoa học nào của con người. Khoa học và thông thái của con người chỉ giúp sáng tạo ra những tiện nghi cho cuộc sống vất chất cũng như chế tạo ra những vũ khí cực mạnh để giết hại lẫn nhau chứ không thể giúp con người nhận biết có Thiên Chúa là Chủ Tể của mọi loài, mọi vật hữu hình và vô hình. Chỉ có đức tin mới giúp con người khám phá ra Thiên Chúa để tin yêu mến Ngài mà thôi.

Thật vậy, khi Chúa Giêsu sinh xuống trần gian làm Con Người, chính Chúa Cha đã mở trí cho  những kẻ chăn chiên và 3 đao sĩ phương Đông, nên họ đã mau mắn đi tìm để thờ lạy “một Hài Nhi” nằm trong máng cỏ, vì họ tin đó “là Đấng Thiên Sai (Messiah) đã đến để giải thoát cho con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và hy vọng được cứu rỗi, nhờ tin vào Người và sống theo đường lối của Người là “Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6).

Ngược lại, đa số người Do Thái, đặc biệt là các trưởng lão, đạo sĩ, và luật sĩ – đã không đến thờ lạy Chúa vì họ không có đức tin để nhận biết Chúa Giêsu là chính Đấng Thiên Sai, Messiah, mà các ngôn sứ đã loan báo trong thời Cựu Ước, vì thế họ đã thờ ơ, không đón tiếp Người như Tin Mừng Thánh Gioan đã viết: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).

Chẳng chịu đón nhận vì họ không tin rằng Đấng Thiên Sai lại có thể giáng sinh trong cảnh khó hèn như vậy. Chính sự cứng lòng tin này từ đầu của dân Do Thái  mà cuối cùng đã đưa họ đến đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá. “Một điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, dân ngoại cho là điên rồ, nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,23-24).

Như thế, chỉ có đức tin mới cho phép con người nhận ra trước hết: “Một trẻ sơ sinh bọc tã  nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12) và sau này một “tử tội bị đóng đinh cách nhục nhã trên thập giá” là Đức Kitô, Đấng Thiên Sai đã đến để “hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mt 20,28).

Qua những bằng chứng Kinh Thánh trên đây, chúng ta thấy rõ đức tin là điều kiện căn bản tối cần cho phép con người  đến với Thiên Chúa là Đấng vô hình nhưng đã mặc khải Người cách hữu hình nơi Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, để “ai thấy Thầy thì thấy Chúa Cha” (Ga 14,9) như Chúa Giêsu đã trả lời cho môn đệ Philipphê. Nhưng, như đã nói ở trên, đức tin phải  là một ơn sủng đặc biệt của Thiên Chúa ban cho con người, như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô khi môn đệ này tuyên xưng Chúa là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Chúa nói: “Này anh Simon, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều đó, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên cao” (Mt 16,17).

Như vậy, chứng tỏ cho thấy đức tin là một ơn mặc khải của Thiên Chúa ban cho con người để giúp con người tin có Ngài là Đấng đã vì yêu thương mà tạo dựng con người, cũng như  đã cứu chuộc con người nhờ Chúa Kitô, Đấng đã “yêu mến tôi và hiến mạng sống vì tôi” (Gl 2,20).

Nhưng hạt giống đức tin mà chúng ta nhận được qua phép Rửa không thể tự nó lớn lên và sinh hoa kết trái trong tâm hồn ta được, nếu ta không cộng tác với ơn Chúa để nuôi dưỡng hạt giống đức tin đó được lớn lên trong ta đến mức trưởng thành.

Thật vậy, đức tin đòi hỏi việc lành, việc đạo đức để tăng trưởng như hạt giống cần được tưới nước để nẩy mầm, sinh cây kết trái. Đó là lý do tại sao Thánh Tông Đồ Giacôbê đã nói:

Thật thế, một thân xác không có hơi thở là một xác chết. Cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26).

Hành động mà Thánh Giacôbê nói trên đây là những việc đạo đức mà ta cần làm để thể hiện đức tin như siêng năng cầu nguyện để thắt chặt tình thân với Chúa. Sau đó, đọc, suy gẫm Lời Chúa, và năng lãnh nhận các bí tích ban sự sống như Thánh Thể và Hoà Giải để đức tin được lớn mạnh thêm trong ta. Nghĩa là ai không cầu nguyện, không tham dự Thánh Lễ, không nghe Lời Chúa và nhất là không rước Mình và Máu Chúa Kitô, thì đức tin của người ấy sẽ ví như cục than hồng bỏ ra ngoài lò sưởi và sẽ mau chóng tự tàn lụi thành tro mà thôi.

Đó là tất cả ý nghĩa của lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa:

“… phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” (Mt 25,29).

Đã có đức tin thì sẽ được cho thêm nếu biết vun sới đức tin đó bằng những việc đạo đức. Ngược lại, thờ ơ hay dửng dưng mọi việc đạo đức thì đức tin sẽ chết dần mòn trong tâm hồn đến mức không còn tin tưởng gì nữa. Thực tế đã chứng minh điều này: Trong số những kẻ đang phạm tội ác, đang giết người, trộm cắp và hiếp dâm… cũng có người trước đây đã được rửa tội, đã mang danh Kitô hữu, nhưng nay đã dấn thân vào con đường tội lỗi chỉ vì không lo nuôi dưỡng đức tin bằng việc lành, đạo đức nên đức tin đã như cây cỏ chết khô vì không được tưới nước đầy đủ.

Khi đã không còn đức tin nữa, thì người ta dễ buông thả chiều theo những đòi hỏi bất chính và dễ dàng đi vào con đường tội lỗi để làm những sự dữ, ví như chiếc xe lao xuống dốc, xuống vực thẳm vì không có thắng ngăn chặn.

Đây là kinh nghiệm thiêng liêng của mỗi người tín hữu chúng ta sống giữa trần gian với bao quyến rũ và dịp tội thách đó đức tin của chúng ta. Chỉ cần nhìn qua cách sống của những người quanh ta cũng đủ cho ta thấy rõ lằn ranh giữa những người tin và không tin có Chúa hiện nay ở khắp nơi trên thế giới.

Trước hết là những kẻ sống theo “văn hoá của sự chết” đang mải mê tìm tiền của và mọi thú vui vô luân vô đạo, hoặc đang cai trị với bạo lực để vơ vết của cải và bóc lột người dân cách vô nhân đạo. Đây chính là những kẻ không có niềm tin vào một Thiên Chúa cực tốt cực lành. Ngược lại, có những người đang xả thân phục vụ cho người nghèo khó, bệnh tật, đói khát theo gương Mẹ Têrêxa, nay là Chân phước (Blessed), hoặc đang dấn thân, hy sinh  đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ ở những nơi xa xôi nghèo đói bên Phi châu và Ấn Độ. Họ là ai? Phải chăng đó chính là những người có niềm tin vững chắc vào Thiên Chúa nên đã hăng say thể hiện niềm tin của mình bằng việc tông đồ, truyền giáo rất đáng ca ngợi?

Tóm lại, nếu ta thực tâm tin có Chúa, tin có sự sống mai sau trên Nước Trời, thì ta phải tỏ thiện chí quyết tâm sống theo đường lối của Chúa ngay từ bây giờ, có như thế đức tin của chúng ta mới có giá trị cứu rỗi. Ngược lại, nếu chỉ tuyên xưng ngoài môi miệng là có Thiên Chúa, nhưng lòng trí lại hướng chiều theo những lôi cuốn của các khuynh hướng xấu trong bản năng, chạy theo những quyến rũ của thế gian, nhất là những cám dỗ rất tinh vi, xảo quyệt  của ma quỷ, địch thù của chúng ta, ví như “sư tử gầm thét rao quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8), thì chắc chắn đức tin sẽ không giúp ích gì cho ta được sống đẹp lòng Chúa, như Chúa Giêsu đã nói rõ với các môn đệ xưa:

Không phải bất cứ ai thưa với Thầy, Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu, nhưng chỉ những  ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên Trời mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).

Nói khác đi, không phải cứ nhận mình là người Công giáo, cứ nói tôi tin có Chúa, nhưng đời sống của tôi lại hoàn toàn mâu thuẫn với niềm tin đó, vì vẫn  ăn gian nói dối, ngoại tình, gian tham, tôn thờ tiền bạc và của cải vật chất, oán thù, nghen ghét, cờ bạc, mãi dâm, nhảy nhót, ca hát vui chơi sa đoạ… thì có nói cả ngàn lần “Lạy Chúa, Lạy Chúa” cũng vô ích mà thôi! Chắc chắn như vậy.

Do đó, muốn đứng vững trong đức tin, trong ơn nghĩa Chúa để bảo đảm ơn cứu độ, chúng ta phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện để “khỏi lâm vào cơn cám dỗ, vì tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mt 26,41) như Chúa Giêsu đã nói với mấy môn đệ đi theo Người vào vườn Giệtsêmani trong đêm Người bị nộp vì Giuđa phản bội.

Phản bội vì mê tiền của hơn yêu mến Thầy, vì yêu mến tôn thờ tiền bạc và của cải vật chất hơn tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất là cội nguồn mọi giàu sang phú quý và hạnh phúc bất diệt.

Nói rõ hơn, người tín hữu Chúa Kitô ngày nay bán Chúa hay phản bội Chúa chỉ vì không sống đức tin thực sự, đòi hỏi phải cương quyết xa tránh mọi tội lỗi do ma quỷ xúi giục với sự tiếp tay của thế gian và chiều theo những khuynh hướng xấu còn tồn tại trong mỗi người chúng ta. Không nỗ lực chiến đấu chống lại những nguy cơ này thì không thể tự nhận mình là người có đức tin được.

Cho nên, phải tuyên xưng đức tin bằng chính đời sống của mình, từ bên trong tâm hồn sâu thẳm cho đến lời nói và hành đông bên ngoài trước mặt người đời và trong mọi hoàn cảnh sống để có thể nói được như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20).

Ước mong mọi người tín hữu chúng ta ý thức đúng mức sự cần thiết phải sống đức tin cách cụ thể như các Thánh Tông đồ Giacôbê và Phaolô dạy trên đây trong Năm Đức Tin (The Year of Faith) sẽ được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chính thức khai mạc tại Toà Thánh La Mã ngày 11-10 năm nay và sẽ bế mạc vào ngày 24-11-2013.

Chúng ta cùng cầu nguyện cho sự thành công tốt đẹp của Năm Đức Tin nhằm quảng bá sâu rộng thêm Tin Mừng Cứu Độ và củng cố đức tin Kitô giáo sao cho thích ứng với hoàn cảnh thế giới ngày nay.

Lm. P.X. Ngô Tôn Huấn

(emty.org Cập nhật: 11/09/2012 – 00:36:28)

 

ĐỨC CHA RICKEN ĐỀ NGHỊ “10 CÁCH ĐỂ SỐNG NĂM ĐỨC TIN”

Để làm nổi bật kỷ niệm 50 năm Công đồng Vatican II và 20 năm phát hành Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, Đức Bênêđictô XVI đã công bố Năm Đức Tin, bắt đầu vào ngày 11 tháng 10 và kết thúc vào ngày 24 tháng 11 năm 2013. Năm Đức Tin nhằm củng cố đức tin cho người Công giáo và qua gương mẫu của họ đưa thế giới đến với đức tin.

Đức Cha David Ricken của Giáo phận Green Bay, chủ tịch Uỷ ban Truyền giáo và Giáo lý trực thuộc Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, đề nghị “10 cách để sống Năm Đức Tin”. Các đề nghị này được lấy từ những hướng dẫn của Bộ Giáo lý Đức tin, vài đề nghị trong số này đã là những đòi hỏi dành cho người Công giáo; những điểm khác có thể được người công giáo thực hiện vào mọi lúc và đặc biệt trong Năm Đức Tin:

1. Tham dự Thánh Lễ. Năm Đức Tin có ý thăng tiến việc mỗi người gặp gỡ Chúa Giêsu. Điều này xảy ra hầu như ngay lập tức nơi Bí tích Thánh Thể. Tham dự Thánh Lễ thường xuyên làm đức tin tăng trưởng qua Kinh Thánh, Kinh Tin Kính, các lời nguyện, Thánh nhạc, bài giảng, việc rước lễ và thông phần với cộng đoàn đức tin.

2. Đi xưng tội. Giống như đi dự lễ, người Công giáo tìm thấy sức mạnh và đào sâu đức tin của mình qua việc tham dự Bí tích Sám Hối và Hoà Giải. Việc xưng tội thúc đẩy con người quay về với Thiên Chúa, diễn tả lòng đau xót vì đã sa ngã và mở đời sống mình cho quyền năng chữa lành của Thiên Chúa. Việc xưng tội tha thứ những tổn thương của quá khứ và ban sức mạnh cho tương lai.

3. Học hỏi đời sống của các thánh. Các thánh là những gương mẫu vượt thời gian về cách sống đời Kitô hữu, và các ngài giúp cho niềm hy vọng được tiếp diễn không ngừng. Các ngài không chỉ là những tội nhân đã liên tục cố gắng gần gũi với Thiên Chúa, mà còn là ví dụ điển hình những cách thức mà một người có thể phụng sự Thiên Chúa: qua việc giảng dạy, truyền giáo, bác ái, cầu nguyện và đơn sơ cố gắng làm đẹp lòng Thiên Chúa trong các hoạt động và quyết định bình thường của đời sống hằng ngày.

4. Đọc Kinh Thánh mỗi ngày. Kinh Thánh cung cấp con đường trực tiếp đến với Lời Thiên Chúa và kể về lịch sử ơn cứu độ con người. Người Công giáo có thể cầu nguyện bằng Kinh Thánh (bằng phương pháp lectio divina hoặc các phương pháp khác) để trở nên hòa hợp hơn với Lời Thiên Chúa. Nói cách khác, Kinh Thánh là một điều đòi buộc để trưởng thành trong Năm Đức Tin.

5. Đọc các văn kiện của Công đồng Vatican II. Công đồng Vatican II (1962-65) mở ra một cuộc canh tân vĩ đại cho Giáo Hội. Công đồng định hình cách cử hành Thánh Lễ, vai trò của giáo dân, cách Giáo Hội hiểu về chính mình, tương quan của mình với những Kitô hữu khác và những người không phải Kitô hữu. Để tiếp tục cuộc canh tân này, người công giáo phải hiểu những điều Công đồng dạy và cách thức làm cho đời tín hữu nên phong phú.

6. Học Giáo lý. Được xuất bản đúng 30 năm sau khi Công đồng khai mạc, Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo bao trùm những điều phải tin, các giáo huấn luân lý, việc cầu nguyện và các bí tích của Hội Thánh Công Giáo trong một quyển duy nhất. Đó là nguồn giúp gia tăng sự hiểu biết đức tin. Một nguồn hữu ích khác là Sách Giáo lý Công giáo của Hoa Kỳ dành cho người trưởng thành (USCCA).

7. Tham gia các sinh hoạt của giáo xứ. Năm Đức Tin không thể chỉ có việc học hỏi và suy niệm. Sự hiểu biết vững chắc về Kinh Thánh, Công đồng và Giáo lý phải chuyển thành hành động. Giáo xứ là một nơi tuyệt vời để bắt đầu, và ơn riêng của mỗi người giúp xây dựng cộng đoàn. Mọi người được mời gọi tham gia các việc như tiếp tân, ca hát trong phụng vụ, đọc sách, giáo lý viên, và các vai trò khác trong đời sống giáo xứ.

8. Giúp những người khốn khó. Toà Thánh khích lệ người Công giáo đóng góp cho việc bác ái và tình nguyện giúp đỡ người nghèo trong Năm Đức Tin. Điều này có ý làm cho mỗi cá nhân gặp được Chúa Kitô nơi người nghèo, người sống bên lề xã hội và những người dễ bị tổn thương. Giúp đỡ người khác khiến cho người Công giáo diện đối diện với Chúa Kitô và tạo nên một gương mẫu cho những người khác trong thế gian này.

9. Mời một người bạn đến dự Thánh Lễ. Năm Đức Tin có tính toàn cầu, tập trung vào việc canh tân đức tin và việc truyền giáo của toàn thể Hội Thánh, tuy nhiên sự thay đổi thật sự xảy ra ở bình diện địa phương. Một lời mời cá nhân có thể làm thay đổi hoàn toàn một người nào đó đang xa rời đức tin hoặc cảm thấy xa lạ với Hội Thánh. Ai cũng quen biết những người như thế, do đó ai cũng có thể gởi đi một lời mời gọi yêu thương.

10. Làm cho các mối phúc thấu nhập vào đời sống hằng ngày. Các mối phúc (Matthêu 5,3-12) vạch nên một kế hoạch chi tiết phong phú cho việc sống đời Kitô hữu. Các mối phúc chứa đựng sự khôn ngoan giúp cho mọi người khiêm tốn hơn, kiên nhẫn hơn, công bằng hơn, trong sáng hơn, yêu thương hơn, tha thứ nhiều hơn và tự do hơn. Đó chính là mẫu đức tin sống động, cần có để lôi kéo người ta đến với Hội Thánh trong năm sắp tới.

Biên dịch: Lm. Phêrô Lê Tấn Bảo (giaophanmytho.net)

(Nguồn: usccb.org)

 


Mục Lục Năm Đức Tin

Năm đức tin: cùng chia sẻ và cùng sống đức tin

Càng ngày con người chúng ta càng cảm nghiệm thấy sự biến chuyển thay đổi trong đời sống không chỉ trong lãnh vực phần đời, mà còn cả trong lãnh vực phần đạo giáo tinh thần nữa.

Đức tin vào Thiên Chúa tuy trước sau vẫn như thế, nhưng cung cách sống thực hành đức tin vào mỗi hoàn cảnh thời gian, không gian địa lý cùng văn hóa xã hội cần có những khác biệt, những thay đổi. Chính vì thế, Á Thánh giáo hoàng Gioan XXIII. đã triệu tập Công đồng Vatican II. năm 1962 để nhìn xét lại nhịp bước đi đức tin của Giáo Hội trong thời đại ngày hôm nay càng lúc càng có nhiều sự thay đổi biến chuyển trong đời sống xã hội.

Các bậc ông bà cha mẹ cùng những vị có trách nhiệm giáo dục hướng dẫn tinh thần cho con em bạn trẻ vẫn hằng thường than thở về tình trạng đời sống tinh thần luân lý kỷ luật ngày xuống dốc trở nên xa lạ nơi thế hệ trẻ.

Những người có trách nhiệm chăm lo việc gìn giữ truyến thống văn hóa cũng phải than phiền về tình trạng dửng dưng của lớp người trẻ đối với việc này.

Từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội, hay ngược lại từ ngoài xã hội vào đến trong gia đình, tình trạng xa lạ dửng dưng xa vời nếp sống truyền thống, đạo đức luân lý đều có những hố sâu. Những hố sâu đó là cuộc khủng hoảng những gía trị tinh thần.

Đức giáo hoàng Benedcito XVI. đã nhìn những khủng hoảng đó là những sa mạc:

„Và có quá nhiều loại sa mạc. Có những sa mạc của nghèo đói, sa mạc của đói khát, sa mạc của bỏ rơi, của cô đơn, của tình yêu bị huỷ diệt. Có những sa mạc của đêm đen Thiên Chúa, sự trống rỗng của các linh hồn không còn nhận thức được phẩm giá và mục đích đời người. Những sa mạc bên ngoài thế giới đang lớn dần vì những sa mạc bên trong đã trở thành quá mênh mông” (Bài giảng khai mạc sứ vụ mục tử ngày 24.042005)

Và hôm nay năm 2012, sau hơn bảy năm trên cương vị Giáo hoàng, ngài có tầm nhìn càng bao quát sâu rộng thực tế hơn nữa:

“Đâu là ý nghĩa một cuộc sống, một thế giới không có Thiên Chúa, thời Công Đồng người ta đã có thể biết từ một vài trang bi thảm của lịch sử, nhưng giờ đây rất tiếc là chúng ta thấy nó xảy ra hằng ngày chung quanh chúng ta. Đó là một sự trống rỗng đang lan tràn.

Nhưng chính từ kinh nghiệm về sa mạc, từ sự trống rỗng ấy, chúng ta có thể tái khám phá niềm vui đức tin, tầm quan trọng sinh tử của đức tin đối với chúng ta.

Trong sa mạc người ta tái khám phá giá trị của những gì là thiết yếu để sống; cũng thế trong thế giới ngày này có vô số những dấu chỉ, thường được diễn tả trong một hình thức mặc nhiên hoặc tiêu cực, về sự khao thát Thiên Chúa, về ý nghĩa tối hậu của cuộc sống. Và trong sa mạc, đặc biệt cần những người có đức tin, qua chính cuộc sống của họ, chỉ cho chúng ta con đường về Đất Hứa và giữ vững niềm hy vọng. Đức tin được sống thực mở rộng tâm hồn cho Ơn Thánh Chúa, là Đấng giải thoát khỏi thái độ bi quan. Ngày nay hơn bao giờ hết, rao giảng Tin Mừng có nghĩa là làm chứng một cuộc sống mới, được Thiên Chúa biến đổi, và chỉ đường.” ( Bài giảng khai mạc Năm đức tin ngày 11.10.2012)

Cho dù là cuộc khủng hoảng, cách đây 50 năm Giáo Hội đã nhìn lối sống mới trong xã hội ngày hôm nay không là kẻ thù của đức tin.Trái lại nhìn đó là những dấu chỉ thời đại trong ánh sáng của Tin mừng phúc âm.

Đức giáo hoàng Benedicto XVI. đã dùng hình ảnh người du hành theo như sách Huấn Ca ( 43,9-39) diễn tả kinh nghiệm thu lượm thêm khôn ngoan của một người đi một ngày đàng học một sàng khôn. Hay theo cách thức sống đức tin gọi đó là cuộc đi hành hương tìm về nguồn đức tin không chỉ cho riêng mình mà còn trong nếp sống tương quan cùng chia sẻ với nhau nữa.

“Hành trình là biểu tượng cuộc sống và người lữ hành khôn ngoan là người đã học nghệ thuật sống và có thể chia sẻ với anh chị em mình – như vẫn xảy ra với các tín hữu hành hương theo con đường Santiago de Compostela, hoặc trên những con đường khác, không phải tình cờ mà các cuộc hành hương này tái thịnh hành trong những năm gần đây. Làm sao mà bao nhiêu người ngày nay cảm thấy cần phải đi hành hương theo những con đường ấy? Phải chăng tại đó họ tìm được, hoặc ít là trực giác được ý nghĩa cuộc sống của chúng ta trên trần thế?

Đó cũng là cách thức chúng ta có thể áp dụng cho Năm Đức Tin: đó là một cuộc lữ hành trong sa mạc của thế giới ngày nay, trong đó ta chỉ mang theo mình những gì là thiết yếu: không gậy, không bao bị, không bánh và không tiền bạc, không mang theo hai áo dài, như Chúa nói với các Tông Đồ khi sai họ đi giảng đạo (Lc 9,3), như Tin Mừng và đức tin của Giáo Hội, mà các Văn kiện Công Đồng Vatican 2 diễn tả một cách rạng ngời, cũng như Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo công bố cách đây 20 năm diễn tả.”( Bài giảng khai mạc Năm đức tin ngày 11.10.2012)

Năm đức tin Hội Thánh lập ra mời gọi mọi tín hữư Chúa Kito không phải chỉ để khơi ngọn lửa đức tin cháy bừng sáng lên nơi mỗi người, nhưng còn muốn cùng loan báo chia sẻ cung cách sống đức tin với nhau nữa.

Năm đức tin 2012

Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long (songductin.de)

 


Mục Lục Năm Đức Tin

Những thách đố đối với Đức Tin trong xã hội hôm nay

[gpcantho.com 16/10/2012]

Đức Tin là hồng ân vô giá mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Đức Tin là “cửa” mở ra, đưa chúng ta đi vào đời sống kết hiệp thân tình với Thiên Chúa và bước vào Giáo Hội của Người; đồng thời Đức Tin là bảo chứng mang lại ơn cứu độ đời đời cho chúng ta.

Thế nhưng, sống trong xã hội hôm nay, người tín hữu Việt Nam đang phải đối diện với những thách đố như là những nguyên nhân chính làm cho nhiều người đánh mất Đức Tin, hoặc xa rời Giáo Hội và dửng dưng với việc thực hành Đạo.

Trong bối cảnh của Năm Đức Tin, chúng ta cùng suy nghĩ về những thách đố tiêu biểu đối với Đức Tin:

1- Vô thần duy vật

Thách đố trước hết đối với Đức Tin chính là môi trường mà chúng ta đang sống và “hít thở”, đó là một xã hội vô thần duy vật. Đây một xã hội tự bản chất chối bỏ Thiên Chúa, đề cao vật chất và quyền lực. Sự chối bỏ Thiên Chúa sẽ là nguyên nhân đưa tới sự sa đọa của con người và xã hội. Khi một xã hội vắng bóng Thiên Chúa, người ta sẽ tạo ra những “thiên chúa khác” nơi một con người hoặc nơi vật chất như người Do Thái trong Cựu Ước đã đúc ‘bò vàng” để thờ như thờ Thiên Chúa. Xã hội chạy theo sức hấp dẫn của đồng tiền. Của cải và quyền lực lên ngôi. Thang giá trị đạo đức bị đảo lộn. Người ta tôn thờ tiền thành tiên. Có tiền mua tiên cũng được! Người ta tìm cách kiếm tiền để có quyền và có quyền thì càng kiếm được nhiều tiền. Người ta đề cao những gì “mình có” mà ít quan tâm và trau dồi những gì “mình là”. Đồng tiền trở thành phép thử. Muốn biết một người như thế nào thì hãy “nhúng người đó vào dung dịch đồng tiền”. Trong xã hội đó, nhiều người Công Giáo cũng bị cuốn vào ma lực của đồng tiền, nên đánh mất Niềm Tin, xa rời Giáo Hội. Trước thách đố này, chúng ta cần nhớ lại Lời Chúa dạy: ”Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được.” (Mt 6, 24).

2- Gian dối và lừa lọc lên ngôi

Thách đố thứ hai của Đức Tin đó là xã hội Việt Nam đang bị báo động bởi đầy dẫy những bất công, lạm quyền và giả dối lan tràn. Đạo đức suy thoái, lương tâm và nhân phẩm bị xúc phạm. Mấy câu thơ sau đây có thể tóm tắt thực trạng xã hội:

Nhân phẩm ngày nay giảm giá rồi,

Chỉ còn thực phẩm tăng giá thôi,

Lương tâm bán rẻ hơn lương thực,

Chân lý chân giò một giá thôi.”

Sống trong môi trường như thế, nhiều người lập luận: người ta gian dối mà mình trung thực là mình thiệt! Có những người Công Giáo cũng hành xử như người không tin, cũng lừa lọc, gian lận đủ cách để làm sao mình có lợi.

Chúa Giêsu dạy chúng ta – những người tin vào Người, hãy sống thật thà và ngay thẳng dù phải trả giá vì niềm tin: “Có thì nói có, không thì nói không. Còn thêm thắt điều gì là do Ma Quỷ”(Mt 5, 37).

3- Sự đề cao hưởng thụ cá nhân

Chưa hết, chúng ta đang phải đối diện với một nền văn hóa bị thống trị bởi lối sống hưởng thục ích kỷ, trong đó, con người chạy theo lối sống hưởng thụ cá nhân, biến người khác như một món hàng để chiếm đoạt và mua bán. Tương quan yêu thương và nhân bản bị xếp sau tương quan trao đổi và lợi ích kinh tế. Xã hội này đã sinh ra những đứa con “quái thai” trong cách sống: bằng mọi cách để kiếm tiền và hì hục hưởng thụ! Khi sống theo lối sống này, con người trở nên ích kỷ, quy ngã, hời hợt, và ít quan tâm đến người khác, thiếu khả năng liên vị, không biết tôn trọng và yêu thương người khác. Quan sát cách hành xử của người Việt Nam ở nơi công cộng và nhất là khi tham gia giao thông, ta cũng thấy người ta tranh giành nhau, chụp giật và manh mún theo kiểu mạnh ai người ấy thắng, cá lớn nuốt cá bé. Cách sống nói lên não trạng và tâm tính con người hôm nay. Đó là một tình trạng đáng buồn cho xã hội Việt Nam hôm nay!

Người Công giáo cần thức tỉnh trước những lối sống này. Tin Mừng của Chúa Giêsu dạy chúng ta sống quảng đại, biết tôn trọng và yêu thương người khác như chính mình (Mt 22, 38-39).

4- Chủ trương duy tương đối

Còn có một thách đố lớn hơn đối với Đức Tin mà Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI luôn cảnh báo, đó là chủ trương duy tương đối. Chủ trương này khiến cho con người hôm nay không còn muốn chấp nhận các chân lý tuyệt đối nữa, không quy chiếu và sống theo một chuẩn mục luân lý hay giá trị đạo đức khách quan nào nữa. Tất cả là tương đối và mỗi người có thể thay đổi các chân lý và sống theo những chọn lựa và chuẩn mực cá nhân. Đây là sai lầm căn bản dẫn đến những sai lầm khác của con người hôm nay.

Để chống lại lối sống này, người Công giáo được mời gọi trở về với các Chân Lý Đức Tin, trung thành với các giá trị Tin Mừng và kiên nhẫn thực hành Đức Tin trong mọi hoàn cảnh sống của mình.

Thay lời kết

Trên đây là những thách đố của Đức Tin mà chúng ta có thể kể ra. Những lối sống và não trạng trên không chỉ phổ biến ở các nước phát triển trên thế giới, nhưng chúng đã và đang len lỏi vào các ngõ xóm, các xứ đạo của Việt Nam. Đức Tin của người Kitô hữu như con thuyền giữa biển khơi, bị đong đưa, trôi dạt bởi những làn sóng đó.

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI có lý khi khẳng định: ”Chúng ta đang phải đối diện với một cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa, một sự mất ý thức tôn giáo là điều tiêu biểu cho một trong những thách thức lớn nhất đối với Giáo Hội ngày nay” (Phát biểu tại Assisi nhân ngày cầu nguyện cho hòa bình 27-10-2011). Theo Đức Thánh Cha, nguyên nhân sâu xa của những thách thức đối với Giáo Hội ngày nay là khủng hoảng Đức Tin. Hơn bao giờ hết, con người cần có Thiên Chúa; nếu không có Thiên Chúa, trần gian sẽ biến thành hỏa ngục.

Có lẽ đây là một trong những lý do chính mà Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI quyết định mở Năm Đức Tin cho toàn thể Giáo Hội hoàn vũ. Năm Đức Tin là thời gian và cơ hội quý báu giúp mọi Kitô hữu ”tái khám phá hành trình Đức Tin để luôn làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say mới của việc gặp gỡ Đức Kitô” đồng thời, “khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng Đức Tin trong sự toàn vẹn và với niềm xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng” (Tự sắc Porta Fidei, số 2 và 9).

Ngày khai mạc Năm Đức Tin 14/10/2012 tại Giáo Phận Vinh

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

 


Mục Lục Năm Đức Tin

Đức Tin Trong Thần Học

Phan Tấn Thành – (daminhvn.net)

I. Kinh thánh.

        A. Cựu ước. 1/ Từ ngữ. 2/ Ý niệm.

        B. Tân ước. 1/ Tin mừng nhất lãm. 2/ Thánh Gioan. 3/ Thánh Phaolô

II. Lịch sử Giáo hội

        A. Thời các giáo phụ. B. Thời Trung cổ. C. Cuộc Cải cách Tin lành. D. Thời Cận đại

III. Đức tin trong các chuyên ngành thần học

        A. Thần học cơ bản. Các tiền đề dẫn đến đức tin.

        B. Thần học tín lý. 1/ Tin như hành động. 2/ Tin như tập quán: nhân đức tin. 3/ Tin xét về chủ thể và đối thể. 4/ Tín điều và gia sản đức tin.

        C. Thần học luân lý. 1/ Tin và cứu độ. 2/ Tin linh hoạt. 3/ Tin và tuyên xưng. 4/ Những tội trái nghịch đức tin.

        D. Thần học tâm linh. 1/ Sống đức tin. 2/ Trưởng thành đức tin.

Chữ viết tắt. GLCG: Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo

——–

      “Đức tin trong thần học” có thể được hiểu theo nhiều nghĩa. Thần học vốn được quan niệm như là “sự suy tư về đức tin” (cogitatio fidei). Đức tin theo sát tiến trình làm việc của thần học (auditus fidei, intellectus fidei, praxis fidei). Điều này hàm ngụ rằng đức tin là linh hồn của thần học: nếu không có đức tin thì thần học mất ý nghĩa. Mặt khác, nếu đối tượng nghiên cứu của thần học là các chân lý đức tin thì đức tin bao trùm hết mọi lãnh vực của thần học. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể đặt câu hỏi dưới một góc cạnh khác: thần học nói gì về đức tin? Đức tin đã đặt ra những vấn đề gì cho thần học? Đây là đối tượng khảo sát của bài này. Đức tin được thần học nghiên cứu trong nhiều lãnh vực chuyên ngành, và mỗi ngành thường chỉ quan tâm đến vài vấn đề đặc thù; vì thế nên có một cái nhìn tổng hợp.

      Trước hết, chúng ta hãy lần lượt duyệt qua những vấn đề liên quan đến đức tin trong Kinh thánh và lịch sử Giáo hội; kế đó, chúng ta điểm qua những khía cạnh của đức tin được bàn trong thần học nền tảng, thần học tín lý, thần học luân lý, thần học tâm linh.

      Trước khi vào đề, thiết tưởng nên lưu ý đến việc dịch thuật: fides (fides tiếng Latinh, foi tiếng Pháp; faith tiếng Anh) không nhất thiết có nghĩa là “đức tin”. Đôi khi chỉ là “niềm tin, lòng tin, tín ngưỡng”, hoặc đơn thuần là: “tin tưởng, tín thác”, nghĩa là những thái độ được áp dụng trong cuộc sống hằng ngày[1]. Đây mới chỉ là một nhận xét sơ khởi, bởi vì sau này, thần học sẽ còn phân biệt nhiều hình thức và cấp độ của tin: tự nhiên / siêu nhiên; hành vi / nhân đức;  chủ thể / khách thể, vv.

I. Kinh thánh

      Ta cũng có thể khẳng định rằng thế giới Kinh thánh cũng có một nét giống với thế giới Việt Nam về phương diện từ ngữ. Thật vậy những từ ngữ nói đến “tin” được áp dụng trong đời sống thường nhật trước khi nói đến những thực tại cao siêu.

      A. Cựu ước

      1/ Từ ngữ. Hai từ ngữ Do thái thường dùng hơn cả là aman và batak.

      a) Động từ Aman, xét theo nguyên ngữ, có nghĩa là: đeo, mang (thí dụ mang đứa con trên tay: Ds 11,12; R 4,16; 2Sm 4,4); theo nghĩa bóng, aman là dựa vào ai, nương tựa, tin tưởng. Do động từ aman mà có thán từ (hay trạng từ) amen, có nghĩa là: đúng thế, chắc rồi, chính xác!

      b) Batak nói lên ý tưởng: trông cậy, tín thác. Như vậy, tin có nghĩa là: trông mong, hy vọng, tin tưởng.

      Những từ ngữ này được dùng trong đời sống hằng ngày, cách riêng trong bối cảnh của mối tương quan xã hội, nhưng ở đây chúng ta giới hạn vào tương quan giữa con người với Thiên Chúa.

      2/ Ý niệm

      Những ý tưởng vừa gợi lên (nương tựa, tín thác) của việc tin được kiện toàn dần dần trải qua tiến trình mạc khải của Thiên Chúa cho Israel: thời tổ phụ Abraham, thời xuất hành của Môsê, thời các ngôn sứ, thời các nhà hiền triết[2].

      a) Lịch sử bắt đầu với ông Abraham. Hồi ấy ông tin thờ các thần khác. Thế rồi, Thiên Chúa hiện ra với ông, hứa ban cho ông một vùng đất màu mỡ và con cháu đông đúc (St 12,1). Lời hứa ấy xem ra xa vời, nhưng ông vẫn tin vào Thiên Chúa (St 15,6), tin vào lời hứa của Ngài. Ông tin rằng Thiên Chúa trung tín với lời hứa và có khả năng thực hiện. Ông tín thác vào Ngài, và thậm chí sẵn sàng hy sinh đứa con của mình khi Ngài đòi hỏi. Ông trở thành khuôn mẫu của một kẻ có lòng tin (Hc 44,20) và tổ phụ của những kẻ có lòng tin (Rm 4,9-11).

      b) Lịch sử mạc khải Cựu ước bước sang một chặng quyết liệt khi Thiên Chúa can thiệp vào cuộc giải thoát dân Israel ra khỏi cảnh nô lệ Ai cập. Thiên Chúa của các tổ phụ đã thăm viếng đoàn dân đang bị áp bức. Thiên Chúa gọi ông Môsê, và hứa sẽ ở với ông trong công cuộc dẫn dắt Israel vào đất hứa (Xh 3,11-15). Ông Môsê đã đáp lại bằng niềm tin (Dt 11,23-29). Ông được đặt làm kẻ môi giới giữa Thiên Chúa với dân: ông thông đạt chương trình của Chúa cho dân, và kêu gọi họ hãy tin vào Chúa, hết lòng tín thác vào Ngài (Ds 14,11; Xh 19,9). Tin có nghĩa là vâng nghe (Đnl 9,23), đáp lại amen (Đnl 27,9-6) với lời Chúa, được biểu thị qua giao ước. Như vậy, tin không chỉ là một lời thưa chấp thuận nhưng còn là thái độ trung thành kéo dài qua năm tháng. Niềm tin thường được lặp lại qua những cuộc tuyên xưng (Đnl 6,4-9; 26,5-9; Tv 78; 105): dựa trên việc kỳ diệu của Thiên Chúa đã làm cũng như thâm tín quyền năng và lòng trung tín của Ngài (Tv 136), dân Israel khẳng định quyết chí dành tất cả tâm trí để yêu mến một mình Thiên Chúa mà thôi.

      c) Tin có nghĩa là tín thác vào lời hứa; tin có nghĩa là chấp nhận giao ước, và biểu lộ qua việc tuyên xưng. Các ngôn sứ còn vạch ra những yêu sách khác của đức tin, khi đụng đến những hoàn cảnh khác nhau của lịch sử.

      – Hệ luận quan trọng của niềm tin vào Thiên Chúa là từ bỏ các ngẫu tượng. Israel luôn bị cám dỗ chạy theo các vị thần của các tôn giáo của dân láng giềng, nhất là khi niềm tin được gắn liền với những phúc lộc trước mắt: tiền của, hoa màu ruộng đất, thắng lợi quân sự. Khi thấy các dân lân bang được những thành quả ấy, Israel bị cám dỗ muốn chạy theo các thần của họ (chẳng hạn thần Baal) vì nghĩ rằng các thần ấy “thiêng” hơn là Giavê, Thiên Chúa của các tổ phụ. Các ngôn sứ không những tố cáo tội thờ ngẫu tượng (Hs 2,7-15; Gr 2,5-13) bởi vì đó là đồ hư ảo (Gr 2,25), mà cả việc cứu viện các cường quốc bởi vì làm như vậy là cậy dựa vào binh mã nhân loại thay vì tin tưởng vào sự che chở của Thiên Chúa (Hs 1,7; Is 31,1). Các ngôn sứ nhắc nhở dân Israel hãy bình tĩnh tín thác vào Thiên Chúa. Thiên Chúa là đá tảng của dân(Is 44,8; 50,10), Đấng trung tín với lời hứa, mạnh mẽ hơn các thần của Babylonia (Is 44,6; 43,8-12; Tv 115,7-11).

      – Đức tin của dân Israel đã trải qua một cuộc thử thách nặng nề khi họ chứng kiến cảnh tàn phá đền thờ và cảnh lưu đày sang Babylonia. Các ngôn sứ giải thích rằng đây là một hình phạt về tội bất trung với giao ước, đã được cảnh cáo nhiều lần. Không phải là Thiên Chúa bỏ rơi Israel, nhưng là Israel đã bỏ Chúa, khi họ tìm sự nương tựa nơi các thế lực nhân loại và ngay cả khi việc thờ phượng của họ rỗng tuếch. Dù nói gì đi nữa, nếu có ai nghi ngờ quyền năng Thiên Chúa trước thảm họa này thì cũng là điều dễ hiểu. Thế nhưng trong hoàn cảnh hầu như tuyệt vọng ấy, các ngôn sứ thời lưu đày đã đào sâu hơn khía cạnh bền bỉ của niềm tin vào Thiên Chúa: tin không chỉ có nghĩa là giữ vững lòng tin tưởng kể cả lúc gặp thử thách, nhưng tin còn có nghĩa là hy vọng bất chấp mọi hoàn cảnh trái ngược. Thật vậy, giữa cảnh nước mất nhà tan, các ngôn sứ loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đưa dân trở về quê hương, sẽ tái thiết xứ sở. Để củng cố niềm tin tưởng ấy, các ngôn sứ nại đến chân lý về sự tạo dựng: Thiên Chúa có quyền năng tạo dựng vạn vật từ hư vô, thì Ngài cũng có dư sức để tái lập dân Israel hiện đang tản mát nơi đất khách quê người.

      d) Các sách Khôn ngoan mở rộng đối tượng của niềm hy vọng: người tín hữu tin tưởng rằng Thiên Chúa không chỉ hứa ban thưởng những phúc lộc ở đời này (tài sản phong phú, con cháu đầy đàn), nhưng nhất là những điều thiện ở đời sau. Vào giai đoạn cuối của Cựu ước, chúng ta thấy thêm một chiều kích mới của đức tin: tin vào Thiên Chúa kể cả vào những lúc bị thử thách, tựa như ông Giób, và thậm chí ngay cả khi người tín hữu bị bách hại (2Mcb 7; Đn 12,2; Kn 2,3; 3,1-9).

      Như vậy, quan niệm về niềm tin được tiến triển dần dần: từ chỗ tín thác vào lời hứa, đến chỗ chấp nhận giao ước; từ việc chấp nhận giao ước đến việc trung thành với giao ước; từ việc trung thành với giao ước đến chỗ mở tầm nhìn đến những thực tại không thuộc thế giới này. Song song với sự kiện toàn ý niệm là sự kiện toàn những tâm tình về phía con người: từ chỗ tin tưởng vào một thần linh quyền năng, đến chỗ lắng nghe Lời Chúa, tuyên xưng những kỳ công của Chúa, trung thành với Luật Chúa kể cả khi phải hy sinh mạng sống.

      B. Trong Tân ước

      Xét về từ ngữ, Tân ước đỡ phức tạp hơn, bởi vì thường chú trọng vào danh từ pistis[3]. Tuy nhiên, xét về nội dung thì phong phú hơn Cựu ước. Trong Cựu ước, tin là tín thác vào Thiên Chúa hoạt động trong lịch sử của dân tộc. Trong Tân ước, sự can thiệp của Thiên Chúa dồn vào thân thế và công trình của đức Kitô. Tin bao gồm nhiều khía cạnh:

      – Tin có nghĩa là chấp nhận sứ điệp mà đức Kitô mang lại, đó là ơn cứu độ được Thiên Chúa ban cho nhân loại qua cái chết và phục sinh của đức Giêsu. Tuy đó là một biến cố lịch sử nhưng nó được diễn tả thành sứ điệp, vì thế nó bao hàm khía cạnh đạo lý. Tin là một hành vi có chiều kích tri thức: chấp nhận sứ điệp được rao giảng qua ngôn ngữ và nếp sống.

      – Tuy nhiên, tin không chỉ giới hạn vào lãnh vực hiểu biết. Tin đòi hỏi sự tuân phục, tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi việc trao ban Con của Ngài. Tin cũng kèm theo một cuộc thay đổi não trạng và nếp sống.

      Đó mới chỉ là những nét khái quát. Mỗi tác giả Tân ước khai triển một vài khía cạnh đặc thù tùy theo nhu cầu của mỗi giáo đoàn cụ thể.

      1/ Trong Tin mừng nhất lãm, tin có ba nghĩa: tin tưởng vào quyền năng của đức Giêsu (x. Mc 2,5; 5,34); chấp nhận Tin mừng mà đức Giêsu rao giảng (Mc 1,15; 16,16.17); chấp nhận chính đức Giêsu.

      a) Tin có nghĩa là tín thác vào lòng tốt và quyền năng của đức Giêsu. Điều này được nêu bật nơi thánh Marcô. Tin là điều kiện tiên quyết để Chúa làm phép lạ: họ phải tin tưởng Người. Người không thể làm phép lạ nào ở Nazareth bởi vì dân thiếu lòng tin (Mc 6,5-6). Ngược lại, Người nói với ông Giairô đã mất người con gái: “Đừng sợ; chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36).

      b) Tin có nghĩa là chấp nhận Tin mừng do đức Giêsu rao giảng. Điều này được thấy ngay từ đầu Tin mừng Marcô: “Thời gian đã viên mãn, và triều đại Thiên Chúa đã gần kề; hãy thống hối và tin vào Tin mừng” (Mc 1,15); cũng như vào lúc kết thúc cuốn sách: “Hãy ra đi khắp thế giới, rao giảng Tin mừng cho mọi thụ tạo. Ai tin và lãnh phép rửa thì sẽ được cứu rỗi” (Mc 16,15-16). Tin vào Tin mừng có nghĩa là chấp nhận rằng Thiên Chúa đã can thiệp vào thế giới nơi bản thân, lời nói và lời giảng của đức Giêsu. Vì thế, ai muốn vào vương quốc Thiên Chúa thì phải chấp nhận những điều kiện mà đức Giêsu đặt ra. Điều này đòi hỏi một cuộc hoán cải, thay đổi não trạng.

      c) Tin có nghĩa là chấp nhận bản thân đức Giêsu. Đây là bước thứ ba: từ chỗ chấp nhận lời giảng về đức Giêsu đến chỗ chấp nhận bản thân Người: Người là Chủ tể (Kyrios). Điều này xảy ra sau cuộc Phục sinh, và được nhấn mạnh trong sách Tông đồ công vụ (x.các kerygma). Dù sao, thánh Luca diễn tả thái độ này qua những hành động cụ thể: đi theo đức Kitô, vác thập giá (Lc 9,23), làm chứng và tuyên xưng (Lc 12,8-9).

      2/ Thánh Gioan

      Tin chiếm một địa vị nổi bật trong các tác phẩm của thánh Gioan. Động từ pisteuein (tin) được dùng 98 lần trong Tin mừng thứ bốn và 9 lần trong các thư ; còn danh từ pistis chỉ được dùng 1 lần trong 1Ga 5,4 (“Đây là điều làm cho chúng ta thắng được thế gian: lòng tin của chúng ta”). Xem ra thánh Gioan quan tâm đến lối sống hơn là đến đạo lý. Tuy vậy, ở cuối Tin mừng, tác giả viết như sau: “Những điều này đã được ghi chép ngõ hầu anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống đời đời” (20,31). Chúng ta hãy tìm hiểu ba điểm liên quan đến: đối tượng, bản chất, hiệu quả của việc tin.

      a) Đối tượng: tin vào Thiên Chúa và tin vào đức Giêsu (8,31.45.46; 10,37.38; 14.11). Đức Giêsu là Đấng Kitô (11,27; 20,31), kẻ được Chúa Cha sai đến (11,42; 17,8.21), là Con Thiên Chúa (20,31), kẻ từ Chúa Cha mà đến (16,27.30). Chúa Cha với đức Giêsu là một (10,30; 17,21).

      b) Bản chất: Thánh Gioan quan niệm “tin” như là một tiến trình gặp gỡ. Cùng với động từ “tin”, tác giả còn dùng những động từ đồng nghĩa tựa như: “đến với” (5,40; 6,35.44ff.65; 7,37), “tiếp đón” (1,12; 5,43), “yêu mến” (8,42; 14,15.21.23f.28; 16,27). Tin là một tiến trình năng động: nó tăng trưởng tiệm tiến, từ những bước khởi đầu đến chỗ hoàn bị, từ chỗ đón nhận đức Giêsu vì phép lạ đến chỗ chấp nhận Người mà không cần phép lạ. Vài thí dụ: 4,46-53 (sĩ quan cận vệ, động từ tin được nói đến ở câu 50 và 53, với hai cấp độ); 4,39-42 (người dân Samaria tin vì nghe lời thuật của người phụ nữ và tin vì nghe lời của Chúa); chương 9 (người mù: so sánh câu17 với câu 38).

      c) Hiệu quả. Tin liên quan đến chuyện sinh tử: số phận vĩnh cửu của con người tùy thuộc vào việc tin hay không tin: “Ai tin thì sẽ không bị xét xử, ai không tin thì đã bị xét xử rồi” (3,18). Ai tin vào Con thì được sự sống hằng hữu (3,36; 6,40.47; 20,31). Tin dẫn đến sự sống vĩnh cửu; không tin dẫn tới hư vong. Tin mang tính quyết định đến số phận vĩnh hằng. Tin mở đường đến hạnh phúc đời đời; nhờ tin mà chúng ta biết Chúa, ở lại trong đức Kitô.

      Ngoài ra, “tin” và “yêu” liên kết với nhau: tin dẫn đến yêu; nhưng tin cũng là kết quả của yêu, bởi vì tin là kết quả của ơn thánh Chúa. Tin là một hồng ân.

      3/ Thánh Phaolô

      Tin là vâng theo lời Chúa được biết nhờ việc rao giảng (Rm 10,17; 16,26; 1,5; 2 Cr 9,13; 10,5; 2 Tx 1,8). Ông Abraham là tấm gương của đức tin bởi vì ông vâng theo lời Chúa nói cho ông. Tin là một tâm tư nội tâm nhưng cũng bao hàm việc tuyên xưng bên ngoài miệng nữa (Rm 10,9).

      Lời giảng và lời tuyên xưng đều có một nội dung: “Đức Giêsu là Chúa; Người đã chịu chết trên thập giá vì tội chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người chỗi dậy vào ngày thứ ba” (1Cr 15,3; xc.1Tx l,9t; Rm 10,4; Cl 2,12; Ep 1,20; Gl 1,1; Rm 4,25, vv.). Tin mừng là đức Kitô. Phàm ai tin vào Thiên Chúa thì cũng chấp nhận kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi đức Kitô. Vì thế Đức Kitô là đối tượng của đức tin.

Đức tin là khởi đầu của tiến trình cứu độ, được đặt tên là “ơn được nên công chính” (công chính hóa). Tuy nhiên sự nhấn mạnh đến chỗ “duy chỉ đức tin mới làm nên công chính chứ không vì giữ luật” (Rm 3,28) đã đưa đến những giải thích cực đoan khiến cho thánh Giacôbê phải lên tiếng (Gc 2,14-16; xem thêm Mt 7,21). Thực ra trong các lá thư, ở phần khuyến thiện, thánh Tông đồ đã nói nhiều đến việc uốn nắn cuộc đời sao cho phù hợp với Tin mừng.

      Người ta nhận thấy rằng trong những thư đầu tiên, thánh Phaolô nhấn mạnh đến quyền năng và sức mạnh của Lời Chúa hay của Tin mừng, nhưng trong những thư mục tử, Người bận tâm đến “đạo lý” và khuyên răn Timôthê hãy “giữ gìn đạo lý” (1Tm 6,20; 2 Tm 1,14), “đạo lý lành mạnh” (1Tm 1,10; 2Tm 4,3; Tt 1,9; 2,1). Đây là một “gia sản” (depositum: paratheke) được ủy thác và cần phải giữ gìn cẩn thận.

      Tuy ngày nay các học giả không coi thánh Phaolô là người viết Thư gửi người Hipri, nhưng tư tưởng của nó gần gũi với thánh Tông đồ. Tác giả dành trọn chương 11 để trưng bày mẫu gương của các chứng nhân đức tin, với lời mở đầu như sau: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Thánh Tôma Aquinô đã nhận thấy nơi đây một định nghĩa cho nhân đức tin (Summa Theologica, II-II, q.4.a.1), gồm bởi hai yếu tố:

      – đối thể: những điều tương lai mà ta trông mong;

      – chủ thể: xác tín, kiên trì[4].

      Tóm lại, pistis trong Tân ước là một thực thể phong phú bao hàm nhiều khía cạnh.

      – Khía cạnh tri thức: hiểu biết về bản thân và sứ điệp của đức Giêsu.

      – Khía cạnh tin tưởng vào sự chân thành của Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta nơi đức Kitô. Sự tín thác kèm theo niềm hy vọng rằng những lời Chúa hứa sẽ được thực hiện (Dt 11,9-11; Rm 4,17-20; 1Pr 1,5-9). Hy vọng phát sinh sự kiên trì và chung thủy (2Tm 4,7; Rm 1,5; Gl 5,6).

      – Hiệu quả: đức tin mang lại đời sống mới (ơn trở nên công chính; thụ tạo mới).

      Khi đối chiếu giữa quan niệm “tin” trong Cựu ước và Tân ước, các tác giả nhận thấy sự liên tục và sự mới mẻ. Sự liên tục ở điểm là tin bao hàm thái độ tín thác, tin tưởng vào Thiên Chúa can thiệp trong lịch sử; sự mới mẻ ở chỗ đối tượng của sự can thiệp của Thiên Chúa được biểu lộ cách cụ thể nơi đức Giêsu Kitô: kể từ nay, ai tin vào Thiên Chúa thì cũng phải tin vào đức Giêsu Kitô. Như vậy trong Tân ước, tin mang thêm một chiều kích, đó là chấp nhận Đức Kitô. Điều trớ trêu là khi đọc Tin mừng, ta thấy những người không tin đức Kitô là những người Do thái; họ không phải là người vô thần, và phần lớn rất trung thành với Luật Mosê. Trong bối cảnh ấy, ta dễ hiểu vì sao Tân ước nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đức tin, tin vào lời giảng của chính đức Giêsu và lời giảng của Hội thánh. Đức tin cần thiết để được cứu rỗi. Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ để chứng minh sứ mệnh của mình, nhưng phép lạ chưa đủ để tin. Cần thái độ cởi mở, cũng như hợp tác với ân sủng. Ngoài ra, vài vấn nạn khác cũng được nêu lên trong cộng đoàn tiên khởi: tương quan giữa tin và biết, tin và thấy, tin và làm, mà thánh Phaolô, thánh Gioan và thánh Giacobê tìm cách trả lời.

(Còn Tiếp)


[1] Trong tiếng Latinh, ngoài danh từ fides (và những từ cùng gốc fidelis, fidelitas) còn có động từ credere (và những từ ngữ cùng gốc: credibilis, credibilitas). Một cách tương tự như vậy tiếng Pháp có danh từ foi và động từ croire (từ đó: croyance), thêm vào những từ gốc Latinh: crédibilité, fidèle, fidélité. – Trong tiếng Anh, danh từ làfaith (với các từ ngữ liên hệ: faithful, faithfulness), còn hành vi được gọi là to believe (từ đó có: belief, believer); ngoài ra còn có những từ gốc Latinh: credit, credentials, fidelity.Trong tiếng Việt, “tin” hoặc “tín” cũng được ghép với nhiều từ khác: tin tưởng, tin cậy, tín ngưỡng, tín thác, trung tín, tín nhiệm, vv.

[2] J. Duplacy, “Fede” in: Xavier Leon Dufour (dir.), Dizionario di Teologia Biblica, Marietti Torino 1971, col.380-385.

[3] Thật ra, batak được chuyển sang tiếng Hy-lạp là elpìselpìzopèpoitha (và sang tiếng Latinh Vulgata là spessperareconfido); còn aman là pistispistúeinalétheia(Latinh: fidescredereveritas). Trong Tân ước danh từ pistis xuất hiện 243 lần và động từ pisteúein 241 lần.

[4] Về ý nghĩa đoạn văn này, xem thông điệp Spe salvi của đức thánh cha Bênêđictô XVI, số 7.

 


Đức Tin Trong Thần Học

 

ĐỐI THỌAI VỀ ĐỨC TIN

 

NHỮNG VẤN ĐỀ

KHOA HỌC VÀ ĐỨC TIN

LM ĐAN VINH

Năm nay Giáo Hội mở ra Năm Đức Tin. Đây là thời gian thuận lợi để mọi thành phần tín hữu cùng nhau đào sâu tìm hiểu về đức tin, thực hành và truyền đạt đức tin cho người khác. Việc tìm hiểu về các vấn đề liên quan đến khoa học và đức Tin tôn giáo rất cần để người tín hữu thêm xác tín và có khả năng trình bày đức tin cho người muốn tìm hiểu những vấn đề liên quan đến khoa học và đức tin tôn giáo như: Chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa và của linh hồn nơi con người; Về sự hình thành của vũ trụ vạn vật; Giải đáp các thắc mắc theo quan điểm của Hội Thánh về sinh sản vô tính, hôn nhân đồng tính, các phương pháp ngừa thai phá thai, vấn đề an tử, các mầu nhiệm đức tin và các họat động trần thế của Giáo Hội, cùng nhiều thắc mắc về hôn nhân gia đình v.v…

Đây là những vấn đề khá mới mẻ đối với phần đông các tín hữu, đặc biệt là giới trẻ thanh thiếu niên Công Giáo chuẩn bị vào đời, mà với vốn liếng giáo lý ít ỏi, thu lượm được trong thời thơ ấu, không đủ để tự giải đáp thỏa đáng. Nhờ hiểu biết thêm về các vấn nạn trên với cái nhìn đức tin, các tín hữu sẽ không bị mặc cảm tự ti khi tiếp xúc với các người vô tín hay bạn bè khác tôn giáo. Trong Năm Đức Tin này, các bạn trẻ cần được tập huấn trở thành những tông đồ giáo dân nhiệt thành loan Tin Mừng cho bạn đồng trang lứa với mình, như Công Đồng Va-ti-ca-nô đã khẳng định :”Giới trẻ phải làm tông đồ trước tiên và trực tiếp cho giới trẻ” (Sắc lệnh TĐGD số 12). Họ phải trở nên như nắm men giữa thúng bột xã hội, để làm cho thúng bột dậy lên men tình yêu của Chúa (x Mt 13,33).

Nhằm mục đích giúp các vị hữu trách phần nào trong việc sọan tài liệu dạy giáo lý cho các thành phần tín hữu chuẩn bị vào đời, các lớp giáo lý dự tòng, hay các hội đòan Công Giáo Tiến Hành… chúng tôi đã cố gắng thu thập và giải đáp các thắc mắc về đức tin rồi sắp xếp thành NHỮNG VẤN ĐỀ KHOA HỌC VÀ ĐỨC TIN

Trong phần giải đáp, chúng tôi cố gắng khai triển, đào sâu đề tài để giúp các giảng viên giáo lý tiện sử dụng khi giảng dạy. Mỗi lời giải đáp gồm Lời Chúa, suy niệm đề tài, tóm kết, thảo luận và lời cầu để xin Chúa ban thêm đức tin cho các học viên.

Những lời giải đáp này không nhằm mục đích cổ võ những cuộc tranh luận vô bổ với ngừơi không cùng tín ngưỡng, mà chỉ nhằm trình bày quan điềm của người có đức tin trước những vấn đề thiết thực liên quan đến đức Tin và luân lý. Những lời giải đáp này được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau như: Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo; Giải quyết vấn đề nhân sinh; Người Công Giáo trước vấn đề đức tin; Đi về đâu?; Đạo Công Giáo là gì?; Những thắc mắc của cuộc đời; Trả lời vắn tắt; Lịch sử nhân lọai; Con người và vấn đề Thương đế, và các tài liệu phong phú trên các trang mạng công giáo…

Tuy nhiên, những lời giải đáp này chắc không tránh khỏi những khuyết điểm sai sót, chưa phải là những lời giải đáp đầy đủ nhất… Dù chỉ là viên gạch nhỏ bé tầm thường, nhưng chúng tôi hy vọng được góp phần với Hội Thánh trong việc xây dựng Nhiệm Thể Chúa Ki-tô và giúp anh em lương dân hiểu thêm về đức tin công giáo trong Năm Đức Tin này.

 

I.VẤN ĐỀ TƯƠNG QUAN GIỮA KHOA HỌC VÀ ĐỨC TIN

 

VẤN ĐỀ 1 : Khoa học mới là tiếng nói chân chính của lòai người tiến bộ. Vì khoa học có khả năng giải đáp mọi vấn đề liên quan đến cuộc sống con người. Còn Đức tin tôn giáo chẳng qua chỉ là sự mê tín, bắt nguồn từ sự dốt nát của những người thời tiền sử. Ngày nào khoa học hòan tòan tiến bộ, thì ngày ấy tôn giáo đương nhiên sẽ bị đào thải.

 

ĐÁP:

1.LỜI CHÚA: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,

thanh không kể ra sự nghiệp tay Ngài” (Tv 18,2).

2.SUY NIỆM:

1. Thực ra Khoa học chỉ có giới hạn, và không thể giải đáp được mọi vấn đề liên hệ đến con người :

Vào thế kỷ 19, Khoa học đã tiến một bước nhảy vọt, đem lại những phát minh mới lạ làm đảo lộn mọi hiểu biết của con người về vũ trụ thiên nhiên, khiến cho một số người quá lạc quan, tin tưởng khoa học có khả năng vô hạn, có thể giải quyết được mọi vấn đề đặt ra mà không cần phải nại tới Thiên Chúa hay thần minh nào khác. RENAN đã mạnh dạn tuyên bố: ”Tổ chức nhân lọai theo phương pháp khoa học. Đó là câu nói cuối cùng của Tân Khoa Học. Dĩ nhiên lý trí sẽ điều định nhân lọai trước, rồi điều định tới Thiên Chúa sau…” (L ‘Avenir de la science p.37).

Nhưng giây phút phấn khởi ban đầu qua đi mau chóng, và người ta đã dần dần ý thức được sự bất lực của khoa học, sản phẩm của trí khôn con người. Những giả thuyết khoa học mà người đi trước coi là chân lý, đã không còn đứng vững trước những khám phá mới lạ hợp lý hơn của người đi sau. P. TERMINÉ đã khiêm tốn hơn khi thú nhận: ”Khoa học liền với bất khả tri. Khoa học đầy bí ẩn mà phần lớn không giải thích được. Khoa học khêu gợi bí nhiệm hơn là giải thích chúng”,

Thực vậy, ngay trong lãnh vực vật chất là đối tượng nghiên cứu của khoa học, thế mà các nhà bác học cũng gặp rất nhiều trở ngại không thể vượt qua. Chẳng hạn : Nhìn một bông lúa ngòai đồng, do quá trình quan sát khoa học có thể cho biết bông sẽ nảy sinh ra hạt lúa. Nhưng lại bất lực không thể hiểu thấu bí nhiệm của việc nảy mộng như thế nào. Cho đến nay, sau bao nhiêu cố gắng, các nhà bác học vẫn không thể làm được một con vật bé nhỏ tầm thường với đời sống tự lập như một con sâu, một con kiến… Đang khi chung quanh họ có không biết bao nhiêu sinh vật khác phức tạp gấp bội phần vẫn chưa được khoa học tìm hiều nghiên cứu.

Như vậy, phải công nhận rằng : Khoa học có giới hạn và không thể tự hào giải quyết được mọi vấn đề, nhất là những vấn đề siêu hình không thuộc đối tượng nghiên cứu của nó như : Thiên Chúa, linh hồn, đời sau… Những vấn đề này thuộc phạm vi đức tin và chỉ có triết học và thần học mới có khả năng và có quyền lên tiếng mà thôi.

2. Đức Tin không phải là mê tín. Nhưng là thái độ cần thiết và hợp lý của con người có trí khôn :

a)Đức Tin chân chính khác hẳn mê tín dị đoan :

Mê tín là quá tin một điều gì cách mù quáng và vô lý. Mê tín do sự ngu dốt, kém hiểu biết khoa học mà ra. Chẳng hạn ngày xưa người ta tin các hiện tượng thiên nhiên như mưa bão sấm chớp… là những vị thần minh, mà con người nếu muốn được an thân, cần cầu khấn lễ bái để được các vị thần ấy che chở phù giúp. Hoặc ngày nay ở các dân tộc bán khai, dân chúng u mê tin tưởng vào tài chữa bệnh của các thày mo, thày pháp… Thay vì phải uống thuốc chữa bệnh theo toa bác sĩ, họ lại theo lời quỉ thần mách bảo để dâng lễ vật và uống tàn nhang, nước thải… Trong trường hợp này, khi con người càng tiến bộ về khoa học, thì những điều mê tín kia cũng bị sẽ bị đào thải.

-Trái lại, Đức Tin chân chính là chấp nhận chân lý cách sáng suốt, dựa trên những bằng chứng đáng tin như : Dù mắt ta không nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng khi nhìn xem vũ trụ mênh mông vô tận, với những trật tự lạ lùng hòan hảo, hoặc khi nghiên cứu các bộ phận trong cơ thể con người, người ta sẽ trực giác nhận biết phải có một Đấng nào đó đã sáng tạo và an bài mọi sự. Đấng ấy được gọi là Thiên Chúa, Ông Trời hay Đấng Tạo Hóa…

b)Đức Tin là điều hợp lý và cần thiết :

Hợp lý vì ngay trong đời sống thường ngày, con người muốn tiến bộ và sống an vui hạnh phúc cũng cần tin cậy lẫn nhau như: Chúng ta tin các kiến thức khoa học được dạy ở nhà trường là đúng, dù chúng ta chưa hề kiểm chứng. Ta tin tưởng giao chìa khóa nhà cho bà con hàng xóm giữ dùm khi ra khỏi nhà, để ngươi thân về trước có thể mở khóa vào nhà được… Thế thì tại sao một khi đã nhận biết có Thiên Chúa, ta lại không tin tưởng những lời Ngài mặc khải, nếu những điều ấy có bằng chứng đáng tin, phát xuất từ những nguồn gốc có giá trị mặc khải, có những phép lạ đi kèm, đồng thời rất nhiều lời tiên báo đã được ứng nghiệm trong lịch sử ? Lời Chúa dù do nhiều tác giả viết ra trong nhiều thời điểm khác nhau, nhưng vẫn luôn đồng nhất trong tòan bộ giáo lý.

Đàng khác, Đức Tin chân chính không phải là mê tín, vì không phủ nhận vai trò tìm hiểu của trí khôn. Trí khôn là một tài năng đặc biệt của con người, có quyền điều tra tìm hiểu những bằng chứng thiết yếu, trước khi quyết định chấp nhận. Đức Giáo Hòang Pi-ô 9 đã viết như sau :”Để tránh mọi lầm lạc lừa dối trong một vấn đề quá quan trọng như thế, lý trí con người phải điều tra rất cẩn thận xem sự việc Thiên Chúa mặc khải có thật không? Để biết chắc chắn rằng Thiên Chúa đã nói thực sự.” (Thông Điệp Qui pluribus.-1846).

-Đức Tin còn cần để đạt hạnh phúc vĩnh cửu: Đời sống con người không phải chỉ gồm các việc ăn uống, ngủ nghỉ, chời đùa… sinh ra rồi chết đi như một con vật tầm thường. Trái lại, con người chúng ta có giá trị trổi vượt vì có hồn thiêng bất tử. Chết ikhông phải là hết, nhưng linh hồn con người sẽ tồn tại mãi, và con người sẽ lãnh nhận hậu quả là được hạnh phúc hay bị đau khổ do những việc đã làm khi còn sống. Chỉ những người biết mở lòng chấp nhận đức tin và trung thành thể hiện đức tin ấy trong cuộc sống thường ngày, mới hy vọng được ơn cứu độ như lời Đức Giê-su: ”Ai tin Ta sẽ được sống đời đời” (Ga 6,47). Và ngược lại: ”Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi” (Ga 3,18).

TÓM KẾt: Tuy khoa học ngày nay đã có những tiến bộ vượt bậc trong việc khám phá những sự kỳ diệu trong vũ trụ thiên nhiên và nơi con người. Nhưng sự tiến bộ mới chỉ ở lãnh vực tìm hiểu và lai tạo bắt chước chứ không phải sáng tạo từ không ra có, không thay đổi được những trật tự kỳ diệu trong vũ trụ. Do đó, sự tiến bộ không phải là lý do để con người phủ nhận Thiên Chúa. Khoa học cũng không thể tự hào giải quyết được mọi vấn đề liên quan đến con người. Vì khoa học chỉ là sản phẩm của trí khôn con người. Đối tượng nghiên cứu của nó là vật chất hữu hình, có thể cân đo đong đếm và nhìn thấy được… thì làm sao có cao vọng lên tiếng trong những vấn đề ngòai lãnh vực thực nghiệm của nó như: Thiên Chúa, linh hồn… Khoa học không thể phủ nhận đức tin chân chính, nhưng có vai trò thanh luyện đức tin, làm cho đức tin ngày một bền vững sáng tỏ hơn.

3.THẢO LUẬN: 1)Theo bạn đức tin có phải là mê tín không? Tại sao ? 2)Khoa học có giải đáp được mọi vấn nạn liên quan đến vũ trụ thiên nhiên và số phận của lòai người không? Tại sao?

4. LỜI CẦU :

Lạy Chúa, xin mở mắt con để nhìn xem những công trình kỳ diệu Chúa đã làm trong vũ trụ thiên nhiên và trong bản thân mỗi người chúng con. Con cảm nghiệm quyền năng của Chúa luôn hiện diện và tác động trong từng đường gân thớ thịt, từng góc cạnh sâu thẳm trong tâm hồn con. Xin cho con biết nghiên cứu về khoa học và tâm lý để thêm hiểu biết về những kỳ công Chúa làm vì yêu thương lòai người. Nhờ đó, con thêm xác tín vào quyền năng và tình thương của Chúa, và dâng lời ngợi khen cảm tạ tình thương của Chúa như lời Thánh Vịnh: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa. Thanh không kể ra sự nghiệp tay Ngài” (Tv 18,2)- A-men.

LM ĐAN VINH

www.hiephoithanhmau.com


Mục Lục Năm Đức Tin

 

Comments are closed.