Chúa Nhật III MC-Năm B

Lời Nguyện Tín Hữu

 

Chủ Tế:  Anh chị em thân mến, hình ảnh Chúa Giêsu đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ nhắc nhở chúng ta cũng phải thanh tẩy toàn diện con người của mình, để xứng đáng là đền thờ cho Thiên Chúa. Với tâm tình sám hối ăn năn trong mùa Chay, chúng ta cùng dâng lên Chúa lời nguyện xin.

 

  1. Chúng ta cầu xin Chúa cho Đức Thánh Cha Phanxicô, các Giám Mục, Linh Mục, và mọi thánh phần dân Chúa trong Hội Thánh, nhờ ơn Thánh Chúa ban, biết sống làm chứng nhân cho Tin Mừng và đem nhiều người trong thời đại hôm nay nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất và chân thật.

……..Chúng ta cầu xin Chúa.

 

  1. Chúng ta cầu xin Chúa cho các Kitô Hữu luôn biết sống kết hợp mật thiết với Chúa Giesu Kitô, biết nhận ra thân phận tội lỗi của mình, mà thật lòng thống hối ăn năn trở vế với Chúa, để được lãnh nhận ơn tha thứ nơi lòng Chúa thương xót.

…….Chúng ta cầu xin Chúa.

 

  1. Xin cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ chúng con luôn hướng lòng về Chúa, để biết sống ngay thẳng bác ái, khước từ những thói hư tật xấu, và quyết tâm trở về với Chúa và trở nên đền thờ sống động của Thiên Chúa.

…….Chúng ta cầu xin Chúa.

 

  1. Chúng ta cầu nguyện theo những ý lễ cộng đoàn xin hôm nay: lễ tạ ơn, bình an, chữa lành, như ý, và các linh hồn được xin cầu nguyện hôm nay.

Cách riêng cho Chị Phạm Kim Ánh đang đau bệnh được Chúa chữa lành và được sống trong sự quan phòng che chở của Chúa.

…….Chúng ta cầu xin Chúa.

 

Chủ Tế:  Lạy Chúa Giêsu Kitô, vì lòng nhiệt thành phục vụ Chúa Cha mà Chúa đã thanh tẩy đền thờ. Xin ban ơn phù trợ, giúp chúng con biêt loại bỏ các thói hư tật xấu tội lỗi, để được thuộc trọn về Chúa, và xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Chúng con cầu xin vì Danh Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng con.

Hạnh Các Thánh-Tháng Ba

Ngày 1 Tháng 03

Thánh Ðavít (k. 589)

Ðavít là thánh quan thầy của xứ Wales và có lẽ là vị thánh nổi tiếng nhất nước Anh. Nhưng không may, chúng ta không biết nhiều về người.

Ðược biết người là một linh mục, tham dự trong công cuộc truyền giáo và sáng lập nhiều đan viện, kể cả đan viện chính của người ở phía nam xứ Wales. Có nhiều truyền thuyết kể về người và các đan sĩ. Các đấng sống rất khắc khổ. Họ làm việc trong im lặng và cầy cấy bằng chân tay mà không dùng đến sức loài vật. Thực phẩm của các đấng chỉ giới hạn là bánh mì, rau trái và nước lạnh.

Vào khoảng năm 550, thánh nhân tham dự một thượng hội đồng ở Brevi thuộc Cardiganshire. Sự đóng góp của người trong thượng hội đồng được coi là chủ yếu và các giáo sĩ đã chọn người làm giáo chủ của Giáo Hội Cambrian. Người ta nói người được tấn phong tổng giám mục bởi vị thượng phụ của Giêrusalem trong một chuyến hành hương Ðất Thánh. Người cũng được cho là đã triệu tập một công đồng để chấm dứt vết tích của lạc giáo Pelagiô (*). Thánh Ðavít từ trần ở tu viện của người ở Menevia khoảng 589. Việc sùng kính người được Ðức Giáo Hoàng Callistus II chấp thuận vào năm 1120. Người được tôn kính là vị quan thầy của xứ Wales.

Thánh Ðavít thường được vẽ đứng trên một gò đất với chim bồ câu ở trên vai. Truyền thuyết nói rằng có lần người đang rao giảng thì một con bồ câu đáp xuống đậu trên vai người, và mặt đất chỗ người đứng dâng lên cao để mọi người có thể nghe người giảng dạy. Trong thời kỳ tiền-Cải Cách, trên 50 nhà thờ ở South Wales được xây dựng để kính người.

(*) Pelagiô là một tu sĩ thuộc thế kỷ thứ năm, chủ trương rằng tự do ý muốn của con người là yếu tố quyết định về sự trọn lành của mỗi một người, và ông cho rằng con người không cần ơn của Thiên Chúa để được cứu rỗi.

 

Ngày 2 Tháng 03

Thánh Agnes ở Bohemia (1205 – 1282)

Tuy Thánh Agnes hiếm muộn nhưng người đã đem lại sức sống cho tất cả những ai biết đến người.

Agnes là con của Nữ Hoàng Constance và Vua Ottokar I của Bohemia. Lúc lên ba, người được hứa gả cho Công Tước xứ Silesia, nhưng ba năm sau đó ông này từ trần. Khi Agnes lớn lên, thánh nữ định tâm dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì.

Sau khi từ chối lời cầu hôn của Vua Henry VII của nước Ðức và Henry III của nước Anh, Agnes phải đương đầu với sự cầu hôn của Frederick II, là Thánh Ðế Rôma (Holy Roman Emperor). Thánh nữ cầu khẩn đến Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô IX để xin giúp đỡ. Ðức giáo hoàng đã nghe theo; một cách cao thượng Frederick trả lời rằng ông cũng không khó chịu khi Agnes yêu quý Vua Thiên Ðường hơn ông.

Sau khi Agnes xây một bệnh viện cho người nghèo và một nơi cư ngụ cho các tu sĩ, người cung cấp tài chánh để xây cất tu viện Clara Nghèo Hèn ở Prague. Năm 1236, cùng với bảy phụ nữ quý tộc khác, người đã gia nhập tu viện này. Thánh Clara đã gửi năm nữ tu từ San Damiano đến tiếp tay với họ, và đã viết cho Agnes bốn lá thư khuyên bảo về ơn gọi mỹ miều của người và đặt người làm tu viện trưởng.

Chị Agnes ngày càng nổi tiếng về sự cầu nguyện, đức vâng lời và hãm mình phạt xác. Ðức giáo hoàng làm áp lực để người nhận chức vụ tu viện trưởng; tuy nhiên, người thích được gọi là “chị già” hơn là tu viện trưởng. Dù là tu viện trưởng, người cũng không quản ngại nấu nướng cho các nữ tu khác cũng như may vá quần áo cho người cùi. Các nữ tu trong dòng nhận thấy người rất tử tế nhưng rất nghiêm nhặt về đức khó nghèo; ngay cả người anh ruột của người muốn tặng cho nhà dòng ít của cải cũng bị người từ chối.

Sau khi người từ trần ngày 6 tháng Ba 1282, việc sùng kính người ngày càng lan rộng. Năm 1989, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên thánh cho người.

Lời Bàn

Thánh Agnes đã sống 45 năm trong tu viện Clara Nghèo Hèn. Một cuộc sống như vậy đòi hỏi sự kiên nhẫn và bác ái lớn lao. Những cám dỗ về sự ích kỷ chắc chắn không tan biến khi thánh nữ bước chân vào tu viện. Có lẽ chúng ta dễ nghĩ rằng các nữ tu dòng kín “sẵn có” sự thánh thiện. Nhưng con đường của họ cũng giống như của chúng ta: hàng ngày cố gắng thay đổi bản tính ích kỷ để đạt đến tiêu chuẩn độ lượng của Thiên Chúa.

Lời Trích

“Ðừng dính dáng với bất cứ ai cản đường bạn và tìm cách thay đổi lời thề mà bạn đã hứa với Ðấng Tối Cao, cũng như tách bạn ra khỏi cuộc sống tuyệt hảo mà Thần Khí Thiên Chúa đã mời gọi bạn” (Trích trong Thư II Thánh Clara gửi cho Agnes).

 

Ngày 3 Tháng 3

Thánh Katharine Drexel
(1858 – 1955)

 Nếu cha bạn là một ông chủ ngân hàng quốc tế và bạn có xe lửa riêng, có lẽ khó để bạn bị lôi cuốn đến những công việc tình nguyện cho người nghèo. Nhưng nếu hàng tuần mẹ bạn dành ba ngày để tiếp đón người nghèo, và cha bạn dành nửa giờ mỗi ngày để cầu nguyện, có lẽ không khó để bạn hy sinh cuộc đời cho người nghèo và cho đi 12 triệu đô la. Ðó là điều mà Thánh Katharine Drexel đã thực hiện.

Ngài sinh ở Philadelphia, Hoa Kỳ, năm 1858 và là cô con gái thứ hai của ông bà Drexel. Sau khi chào đời được hai năm thì người mẹ ruột từ trần. Hai năm sau, cha ngài tái hôn và họ có thêm một cô con gái nữa. Tất cả ba cô đều có một nền tảng giáo dục vững chắc và thường đi du lịch nhiều nơi. Khi Katharine hai mươi mốt tuổi, là con gái nhà giầu, ngài sẵn sàng có địa vị trong xã hội, nhưng khi chăm sóc người mẹ ghẻ trong ba năm bị bệnh ung thư, ngài thấy rằng mọi tài sản của dòng họ Drexel cũng không thể cứu được con người khỏi sự đau khổ và cái chết, từ đó cuộc đời ngài thay đổi đáng kể.

Vào năm 1885, ông Drexel từ trần để lại gia tài kếch sù cho ba cô con gái. Lúc bấy giờ, Katharine và hai chị em đều gia nhập tổ chức Tông Ðồ Giáo Dân. Họ thường để ý đến hoàn cảnh khó khăn của người da đỏ, và thường bàng hoàng khi đọc những câu truyện về người da đỏ Mỹ Châu. Trong chuyến du lịch Âu Châu, ngài được gặp Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII và xin Ðức Thánh Cha gửi thêm các nhà truyền giáo đến Wyoming để giúp đỡ bạn của ngài, là Ðức Giám Mục James O’Connor. Ðức giáo hoàng trả lời, “Tại sao chính con không trở nên nhà tryền giáo?” Câu trả lời ấy đã khích động ngài đến độ phải nằm bệnh trong vài ngày.

Trở về Hoa Kỳ, ngài đến thăm người da đỏ Dakota, gặp tù trưởng Red Cloud và bắt đầu giúp đỡ họ.

Việc lập gia đình đối với Katharine thì quá dễ dàng. Nhưng sau các cuộc thảo luận với Ðức Giám Mục O’Connor, Katharine viết trong nhật ký năm 1889, “Ngày lễ Thánh Giuse năm ấy đã đem lại cho tôi một ơn sủng lớn lao để có thể hy sinh quãng đời còn lại cho người da đỏ và da mầu.” Vào ngày 7 tháng Mười Một 1889, ngài mặc áo dòng và lấy tên Sơ Mary Katharine. Năm ấy, các nhật báo lớn ở Hoa Kỳ đều chạy hàng chữ ngay trang đầu, “Dám Bỏ 7 Triệu Ðôla!”

Sau ba năm rưỡi huấn luyện, Katharine và mười ba nữ tu đầu tiên của ngài (Sisters of the Blessed Sacrament for Indians and Colored – Nữ Tu Thánh Thể cho Người Da Ðỏ và Da Mầu) mở trường học ở Santa Fe. Tiếp đó các trường học nối đuôi nhau thành lập. Vào năm 1915, ngài thành lập Ðại Học Xavier ở New Orleans, là đại học đầu tiên ở Hoa Kỳ dành cho người da đen.

Cho đến năm 1942, ngài đã thiết lập xong hệ thống trường Công Giáo cho người da đen trong 13 tiểu bang, cộng thêm 40 trung tâm truyền giáo và 23 trường làng. Những người kỳ thị chủng tộc đã quấy phá công việc của ngài, họ đốt cả một trường học của ngài ở Pennsylvania. Tổng cộng, ngài đã thành lập 50 trung tâm truyền giáo cho người da đỏ trong 16 tiểu bang.

Khi 77 tuổi, ngài bị kích xúc tim nhưng vẫn tiếp tục đến các trung tâm truyền giáo để hướng dẫn các sơ trong dòng. Vào năm 1941, ngài cử mừng lễ kim khánh thành lập dòng, và Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã đề cập đến thành quả của ngài như “một trang sử huy hoàng trong biên niên sử của Giáo Hội.”

Trong những năm cuối đời, Mẹ Katharine Drexel bị liệt, ngài sống âm thầm cầu nguyện trong căn phòng nhỏ nhìn về phía cung thánh. Nhiều mẩu giấy ghi lại các lời cầu nguyện của ngài, cũng như những suy niệm và những nguyện vọng vô tận. Ngài từ trần khi 96 tuổi. Tổng cộng ngài đã dùng 12 triệu đô la tài sản của ngài cho công cuộc truyền giáo cho người da đỏ và da đen ở Hoa Kỳ.

Vào tháng Mười Một 1988, ngài được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước. Và đầu tháng Mười năm 2000, ngài đã được phong thánh.

Lời Bàn

Các thánh luôn luôn có những lời khuyên giống nhau: Hãy cầu nguyện, sống khiêm tốn, chấp nhận thập giá, hãy yêu thương và tha thứ cho tha nhân. Nhưng khi được nghe những lời ấy từ một người, có tất cả những giầu sang của trần thế, được báo chí phỏng vấn, được du lịch trên các toa xe lửa hạng sang, thì đó là một nhắc nhở mạnh mẽ cho chúng ta biết, sự thánh thiện có thể thực hiện được trong thế giới hôm nay cũng như ở Giêrusalem hoặc Rôma thuở xưa.

Lời Trích

“Sự kiên nhẫn và khiêm tốn chịu đựng thập giá – dù bất cứ thập giá nào – là công việc cao cả nhất mà chúng ta phải thi hành.

“Ôi, dù đã 84 tuổi mà tôi vẫn còn xa vời với hình ảnh của Ðức Giêsu trong cuộc đời thánh thiện của Ngài ở trần thế!” (Mẹ Katherine Drexel).

 

Ngày 4 Tháng 3

Thánh Casimir
(1458 – 1483)

Casimir lớn lên trong một thế giới mà đó không phải là cuộc đời ngài mong muốn. Là hoàng tử Ba Lan, con trai thứ hai của Vua Casimir IV và Hoàng Hậu Elizabeth của Áo, cuộc đời ngài được đặt định để nối tiếp quyền bính của vua cha và gia tăng quyền thế của Ba Lan.

Ngay từ nhỏ, Casimir đã cảm thấy cuộc đời mình thuộc về một người nào đó, mà vị Vua ấy cao cả hơn cha ngài nhiều. Bất kể những áp lực, nhục nhã và bị tẩy chay, ngài vẫn giữ sự trung tín ấy trong suốt cuộc đời.

Ngay từ nhỏ Casimir đã dâng mình cho Chúa. Một trong những động lực tận hiến ấy là nhờ người giám hộ, John Dlugosz, mà sự thánh thiện của ông đã khuyến khích Casimir trên hành trình cuộc đời.

Thật khó để chúng ta tưởng tượng rằng đời sống vương giả lại là một áp lực. Nhưng đối với Casimir, sự sang trọng chung quanh ngài là những cám dỗ để phản bội sự trung tín đích thực. Ðể chống đối những quần áo sang trọng, đắt tiền mà người ta cho rằng ngài sẽ vui thích, ngài mặc những quần áo bình dân nhất.

Khước từ ngay cả sự tiện nghi bình thường, ngài ngủ ít và dành thời giờ ban đêm để cầu nguyện. Và thay vì nằm trên giường nệm, ngài ngủ trên sàn nhà. Mặc dù ngài là hoàng tử, nhiều người chung quanh đã nhạo cười ngài về những điều ấy. Tuy nhiên, trước bất cứ áp lực nào, Casimir vẫn thản nhiên và thân thiện.

Chắc chắn cha ngài phải kinh ngạc về thái độ của con mình, nhưng có lẽ ông cũng nhìn thấy và thán phục sức khỏe của Casimir. Lầm tưởng về điều ấy nên ông đã sai Casimir dẫn một đạo quân sang xâm chiếm Hungary, theo như lời yêu cầu của một số nhà quý tộc ở đây. Mặc dù cảm thấy cuộc viễn chinh thật sai lầm, Casimir cũng đã vâng lời vua cha. Nhưng mỗi một bước tiến ngài linh cảm rằng đó là sự bất tuân Cha trên trời. Do đó khi binh lính bắt đầu bỏ trốn vì không được trả lương, ngài rất hân hoan nghe theo lời khuyên của các sĩ quan mà đưa quân trở về nhà. Khi được biết Ðức Giáo Hoàng Sixtus IV chống đối cuộc xâm lăng ấy, Casimir biết rằng linh cảm của mình là đúng.

Tuy nhiên, vua cha quá tức giận vì hoạch định của ông bị thất bại, nên ông đã trục xuất Casimir, lúc ấy mới 15 tuổi, đến một lâu đài ở Dobzki, hy vọng rằng sự tù đầy sẽ thay đổi ý định của Casimir. Nhưng trong thời gian lưu đầy, ý định ban đầu của Casimir mà ngài tin là đúng lại càng gia tăng mạnh mẽ hơn, và ngài từ chối cộng tác trong mọi hoạch định của vua cha bất kể bất cứ áp lực nào. Ngài từ chối cả cuộc hôn nhân do cha ngài sắp đặt. Ngài chỉ cộng tác với chương trình của vị Vua đích thực qua sự cầu nguyện, học hỏi và giúp đỡ người bất hạnh.

Ngài từ trần vì bệnh phổi khi mới 23 tuổi trong thời gian đến thăm Lithuania, mà ngài cũng là Ðại Công Tước của quốc gia này. Ngài được mai táng ở Vilna, Lithuania.

Ngài được đặt làm thánh quan thầy của Ba Lan và Lithuania.

Lời Bàn

Trong nhiều năm trời, các quốc gia Ba Lan và Lithuania đã mờ nhạt trong nhà tù vĩ đại bên kia Bức Màn Sắt. Bất kể những đàn áp, người Ba Lan và Lithuania vẫn kiên trì giữ vững đức tin mà đức tin ấy đã trở nên đồng hoá với tên của họ. Vị thánh quan thầy trẻ tuổi đã đem cho họ một hy vọng: Hòa bình không thể chiếm được bằng chiến tranh; đôi khi ngay cả nhân đức cũng không chiếm được sự an bình thoải mái, nhưng sự bình an của Ðức Kitô có thể thấm nhập vào cả các bức màn sắt.

Lời Trích

Thánh Casimir vô cùng quý mến Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa; đặc biệt là ngài yêu thích bài thánh ca Latinh về Ðức Mẹ, “Omni die dic Mariae” (Ca Ngợi Mẹ Hàng Ngày). Ngài đã yêu cầu bản nhạc ấy được chôn theo với ngài.

 

 Ngày 5 Tháng 3

Thánh Gioan Giuse của Thánh Giá
(1654 – 1734)

Sự khắc kỷ tự nó không phải là cùng đích nhưng chỉ là một trợ giúp để sống bác ái hơn — như cuộc đời Thánh Gioan Giuse đã minh chứng.

Gioan Giuse sống rất khắc khổ ngay từ khi còn trẻ. Năm 16 tuổi, ngài gia nhập dòng Phanxicô ở Naples; ngài là người Ý đầu tiên theo phong trào cải cách của Thánh Phêrô Alcantara. Sự thánh thiện nổi tiếng của Gioan Giuse là động lực khiến cha bề trên giao cho ngài trách nhiệm thành lập một tu viện mới, ngay cả trước khi được thụ phong linh mục.

Với đức vâng lời, ngài chấp nhận mọi bổ nhiệm, từ giám đốc đệ tử, quản gia và, sau cùng là bề trên giám tỉnh. Những năm dài hãm mình phạt xác đã giúp ngài thi hành các nhiệm vụ trên với lòng bác ái cao cả. Khi là quản gia ngài không ngần ngại làm việc trong nhà bếp, hoặc gánh củi, gánh nước cho các tu sĩ. Khi thời gian làm giám tỉnh đã mãn, Cha Gioan Giuse tận tụy trong công việc giải tội và hãm mình phạt xác, là hai điều trái ngược với tinh thần ban đầu của Thời Khai Minh (*). Ngài cũng được ban cho nhiều ơn siêu nhiên, tỉ như ơn tiên tri và làm phép lạ. Ngài từ trần vào năm 80 tuổi ở tu viện Naples.

Cha Gioan Giuse được phong thánh năm 1839.

Lời Bàn

Sự hãm mình phạt xác của Thánh Gioan Giuse đã giúp ngài trở nên một bề trên đầy khoan dung mà Thánh Phanxicô đã nhắm đến. Sự khắc kỷ phải đưa chúng ta đến đức ái — chứ không phải sự cay đắng; nó phải giúp chúng ta nhận ra đâu là những ưu tiên trong cuộc sống, và giúp chúng ta sống yêu thương hơn. Thánh Gioan Giuse là bằng chứng sống động của điều mà Chesterton nhận xét: “Ðể thời đại lôi cuốn thì quá dễ; sự khó khăn là giữ được lập trường của mình” (G.K. Chesterton, Orthodoxy, trang 101).

(*) Thời Khai Minh (Age of Enlightenment), là trào lưu tư tưởng trong thế kỷ 17 và 18, chủ trương dùng lý trí con người để chế ngự toàn thể văn hóa hay tư duy nhân loại.

 

Ngày 6 Tháng 3

Tôi Tớ Thiên Chúa Sylvester ở Assisi
(c. 1240)

     Sylvester là một trong 12 môn đệ đầu tiên của Thánh Phanxicô Assisi, và là tu sĩ đầu tiên của nhánh anh em hèn mọn.

    Là con cháu của một dòng dõi quý tộc, có lần Sylvester bán gạch và đá cho Thánh Phanxicô để ngài xây dựng lại ngôi thánh đường. Và sau đó không lâu, khi Sylvester trông thấy Thánh Phanxicô và Bernard ở Quintavalle phân phát tài sản của Bernard cho người nghèo, Sylvester than phiền rằng ông không được trả xứng đáng với số gạch mà ông đã bán, và ông đòi hỏi xin thêm.

    Mặc dù Thánh Phanxicô biết ơn và trao thêm cho Sylvester một số tiền, nhưng không bao lâu ông tràn ngập mặc cảm tội lỗi vì số tiền ấy. Ông bán hết tất cả tài sản, bắt đầu cuộc đời sám hối và đi theo Thánh Phanxicô. Sylvester trở nên một người thánh thiện và siêng năng cầu nguyện, và là một người được Thánh Phanxicô quý mến — một bạn đồng hành, và là người mà có lần Thánh Phanxicô đã hỏi ý kiến. Chính Sylvester và Thánh Clara đã trả lời Thánh Phanxicô rằng ngài phải phục vụ Thiên Chúa bằng cách đi rao giảng hơn là tận hiến trong sự cầu nguyện.

    Có lần trong thành phố kia là nơi cuộc nội chiến đang bùng nổ, Sylvester được Thánh Phanxicô ra lệnh đến xua đuổi ma quỷ. Ở cổng thành, Sylvester lớn tiếng kêu: “Nhân danh Thiên Chúa toàn năng và qua đức vâng lời tôi tớ Chúa là Phanxicô, tất cả ma quỷ phải ra khỏi đây.” Ma quỷ đã ra khỏi thành và sự bình an trở lại với thành phố.

    Sau cái chết của Thánh Phanxicô, Sylvester đã sống thêm 14 năm nữa và ngài được chôn cất gần thánh nhân trong Thánh Ðường Thánh Phanxicô ở Assisi.

 

Ngày 7 Tháng 3

Thánh Perpetua và Thánh Felicity
(c. 203?)

Trong những truyền thuyết mù mờ về đời sống các vị tử đạo tiên khởi, may mắn chúng ta vẫn còn được tài liệu về sự can đảm của Thánh Perpetua và Felicity từ chính nhật ký của Thánh Perpetua, của giáo lý viên Saturus, và các chứng nhân. Văn bản này, thường được gọi là “Sự Tử Ðạo của Perpetua và Felicity,” được nổi tiếng trong các thế kỷ đầu tiên đến nỗi văn bản ấy đã được đọc trong phụng vụ.

Vào năm 203, Vibia Perpetua quyết định trở nên một Kitô Hữu, mặc dù ngài biết điều đó có thể dẫn đến cái chết trong thời kỳ bách hại của Septimus. Một người em trai của ngài cũng noi gương và trở nên người dự tòng. Cha của ngài cuống cuồng lo âu và ông cố gắng thay đổi ý định của ngài. Sự lo âu của ông thì dễ hiểu, vì một phụ nữ 22 tuổi, hăng say và có học thức như Perpetua thì không có lý do gì lại muốn chết — chưa kể ngài còn có một đứa con mới sinh.

Nhưng thái độ của Perpetua thì rất rõ ràng. Ngài chỉ tay vào một bình đựng nước, và hỏi cha ngài, “Cha có thấy cái bình đó không? Cha có thể gọi nó một cái tên nào khác với bản chất của nó không?” Người cha trả lời, “Dĩ nhiên là không.” Và Perpetua thản nhiên tiếp lời, “Con cũng không thể gọi con bằng một cái tên nào khác hơn là bản chất của con — một Kitô Hữu.” Câu trả lời đã làm người cha bực mình và ông đã tấn công chính con mình. Nhật ký Perpetua kể cho chúng ta biết, sau biến cố ấy ngài phải sống tách biệt với cha ngài trong vài ngày, và sự tách biệt ấy đã đưa đến sự bắt bớ và tù đầy của chính ngài.

Perpetua bị bắt với bốn người dự tòng khác, kể cả hai người nô lệ là Felicity và Revocatus. Người dạy giáo lý cho các ngài là Saturus đã bị bắt trước đó.

Nhà tù đầy chật người đến nỗi họ ngộp thở vì nóng nực và không có một chút ánh sáng. Quân lính thì xô đẩy họ không một chút xót thương. Perpetua thật khiếp sợ, nhưng trong tất cả những sự ghê rợn ấy, điều đau khổ lớn lao nhất của ngài là phải xa cách đứa con thơ.

Người nô lệ trẻ tuổi là Felicity lại càng đáng thương hơn nữa, vì ngài đang mang thai tám tháng và phải sống trong cái nóng nực, chen chúc, và thô bạo ấy.

Hai phó tế phục vụ tù nhân đã đút lót lính canh để các ngài được ở chỗ tốt nhất trong nhà tù. Ở đó, mẹ và em của Perpetua đã đến thăm và đưa con đến cho ngài. Khi được phép giữ con trong tù, ngài cảm thấy “nhà tù trở nên như cung điện”. Cha ngài lại nài nỉ ngài thay đổi ý định, ông hôn tay ngài và ngay cả quỳ dưới chân ngài. Perpetua nói với ông, “Chúng ta không thể dựa vào quyền thế của chúng ta, nhưng quyền thế của Thiên Chúa.”

Trong khi ngài bị đưa ra xét xử, cha ngài cũng đi theo, nài nỉ quan tòa. Vì thương hại, quan tòa cũng cố thay đổi ý định của Perpetua, nhưng ngài vẫn cương quyết, và cùng với các người khác, ngài bị kết án tử hình bằng cách ném cho thú dữ ăn thịt trong đấu trường.

Trong khi đó Felicity cũng rất đau khổ. Theo luật lệ, giết người phụ nữ mang thai là điều trái phép. Giết hài nhi trong bụng mẹ là đổ máu người vô tội và linh thiêng. Trong khi đó, Felicity lại lo rằng ngài không kịp sinh con trước ngày tử đạo, và các bạn ngài sẽ bước vào vinh quang ấy mà không có ngài.

Hai ngày trước khi bị hành quyết, Felicity đau đớn chuyển bụng. Bọn lính canh chế diễu, nhục mạ ngài và nói, “Nếu đau đớn bây giờ mà còn chịu không nổi, thì làm sao đương đầu với thú dữ?” Felicity điềm tĩnh trả lời, “Bây giờ tôi là người phải chịu đau khổ, nhưng trong đấu trường, một Ðấng khác sẽ ở trong tôi, chịu đau khổ dùm tôi vì tôi đã chịu đau khổ vì Ngài.” Felicity sinh hạ một bé gái kháu khỉnh và được một Kitô Hữu ở Carthage nhận làm con nuôi.

Vào ngày hành quyết, bốn bổn đạo mới và giáo lý viên bước vào đấu trường với niềm vui và sự bình thản. Khi dân chúng đòi hỏi Perpetua và các bạn ngài phải mặc y phục dành cho việc thờ cúng tà thần, Perpetua đã đối chất với các lý hình. “Chúng tôi tự ý chịu chết để được tự do thờ phượng Thiên Chúa của chúng tôi. Chúng tôi đã trao mạng sống cho các ông thì không có lý do gì chúng tôi phải thờ lạy thần thánh của các ông.” Và các ngài đã được phép mặc quần áo của mình.

Những người đàn ông thì bị tấn công bởi gấu, beo và heo rừng. Các phụ nữ thì bị bò dại tấn công. Perpetua, dù bị tan nát và rối bời, ngài vẫn nghĩ đến các bạn và chạy đến giúp Felicity đứng dậy. Cả hai đã đứng cạnh nhau khi bọn lính cắt cổ tất cả năm vị tử đạo.

Lời Bàn

Không chỉ những Kitô Hữu thời xa xưa mới bị bách hại vì đức tin. Hãy nhìn đến trường hợp của cô Anne Frank, một thiếu nữ Do Thái, đã cùng với gia đình trốn tránh và sau cùng phải chết trong trại tử thần của Hitler thời Thế Chiến II. Cô Anne, cũng như Thánh Perpetua và Filicity, đã chịu thử thách và đau khổ, và sau cùng chịu chết vì tận hiến cho Thiên Chúa. Trong nhật ký, cô Anne viết, “Ðối với những người trẻ như chúng tôi, đó là sự khó khăn gấp bội khi phải giữ vững vị thế và lập trường của mình trong quãng thời gian mà mọi lý tưởng đều rạn vỡ và tiêu tan, khi con người lộ ra bộ mặt xấu xa nhất, và không biết có nên tin vào chân lý, sự chính trực và Thiên Chúa hay không.”

Lời Trích

Lời sau cùng Perpetua nói với em mình là: “Hãy giữ vững đức tin và yêu thương tha nhân.”

 

Ngày 8 Tháng 3

Thánh Gioan của Thiên Chúa
(1495 – 1550)

 Từ lúc tám tuổi cho đến khi chết, Thánh Gioan thường hành động hấp tấp. Sự thử thách là làm sao để biết đó là sự thúc giục của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là những cám dỗ trần tục. Nhưng không giống như những người bốc đồng khác, một khi đã quyết định, dù hấp tấp đi nữa, thánh nhân trung thành với quyết định ấy dù có gian khổ cách mấy.

Khi lên tám tuổi, Gioan nghe một linh mục nói về cuộc phiêu lưu đi tìm thế giới mới. Ðêm hôm ấy, Gioan bỏ nhà đi theo vị linh mục này và không bao giờ gặp mặt cha mẹ nữa. Cả hai đi ăn xin từ làng này sang làng khác cho đến khi Gioan ngã bệnh nặng. May mắn, nhờ một người tá điền trong vùng chăm sóc và nhận làm con nuôi nên Gioan mới sống sót. Anh làm nghề chăn cừu cho đến khi 27 tuổi thì gia nhập quân đội Tây Ban Nha trong cuộc chiến chống với nước Pháp. Khi là quân nhân, Gioan bê bối không thể tưởng, anh đánh bài, uống rượu và cùng với đồng đội phá làng phá xóm. Một ngày kia, khi đang cưỡi con ngựa ăn cắp được, anh bị ngã ngựa gần ranh giới với nước Pháp. Hoảng sợ vì thoát chết, anh nhìn lại cuộc đời và vội vàng thề sẽ thay đổi.

Khi trở về đơn vị, anh giữ lời hứa và đi xưng tội, thay đổi lối sống. Các bạn đồng đội không bận tâm với việc sám hối của anh, nhưng họ chán ghét anh vì anh luôn thúc giục họ từ bỏ các thú vui trụy lạc. Bởi đó họ tìm cách đánh lừa để anh rời bỏ nhiệm sở, vi phạm kỷ luật và bị đuổi ra khỏi quân đội sau khi bị đánh đập và lột hết của cải. Anh phải đi xin ăn trên đường trở về nhà cha nuôi, trở lại nghề chăn cừu.

Khi chăn cừu, Gioan có nhiều thời giờ để suy niệm về ơn gọi của mình. Vào lúc 38 tuổi Gioan quyết định sang Phi Châu để chuộc những Kitô Hữu bị bắt. Nhưng trong khi chờ đợi ở bến tầu Gibraltar, vì cảm thương một gia đình quý tộc bị sa cơ thất thế sau biến động chính trị và phải lưu đầy, Gioan quên đi ý định ban đầu và tình nguyện làm gia nhân cho họ. Khi đến đất lưu đầy, gia đình này bệnh hoạn đến độ không những Gioan phải săn sóc họ mà còn phải đi làm để kiếm tiền nuôi sống họ. Công việc xây cất các thành lũy thật vất vả, thật bất nhân mà các nhân công thường bị đánh đập và đối xử tàn tệ bởi những người tự xưng là Công Giáo. Cảnh tượng ấy đã làm lung lay đức tin của Gioan. Một linh mục khuyên Gioan đừng đổ tội cho Giáo Hội vì những hành động của giáo dân, và nên về lại Tây Ban Nha.

Ở Tây Ban Nha, ban ngày Gioan làm phu khuân vác bến tầu, ban đêm ngài đến nhà thờ để cầu nguyện và đọc sách thiêng liêng. Việc đọc sách đem lại cho ngài niềm vui đến độ ngài quyết định phải chia sẻ niềm vui ấy với người khác. Gioan bỏ nghề khuân vác và đi bán sách dạo, lang thang từ phố này sang phố khác để bán sách thiêng liêng và ảnh các thánh. Khi 41 tuổi, Gioan sang Granada mở một tiệm bán sách nhỏ.

Sau khi nghe giảng về sự ăn năn sám hối của vị giảng thuyết nổi tiếng thời bấy giờ là Chân Phước Gioan Avila, Gioan trở về nhà, xé tất cả các sách đời, phân phát tiền của và các sách đạo cho mọi người. Gioan lang thang với quần áo rách nát, than khóc về tội lỗi của mình như một người điên, và bị trẻ con cũng như mọi người chế nhạo.

Bạn bè đưa Gioan vào dưỡng trí viện để chữa trị, là nơi ngài bị trói và bị đánh đập. Cho đến khi Chân Phước Gioan Avila đến thăm và cho biết là sự sám hối của ngài đã đủ 40 ngày, như Ðức Kitô xưa ăn chay trong sa mạc, thì Gioan trở lại bình thường và được đưa sang một khu vực khác, lành mạnh hơn. Ở đây, Gioan nhanh nhẹn giúp đỡ các bệnh nhân khác, và bệnh viện cũng không phiền hà khi có một người trợ tá làm việc không công. Cho đến khi ngài tuyên bố là sẽ mở một nhà thương khác thì họ cho ngài xuất viện.

Có thể Gioan tin rằng Thiên Chúa muốn ngài xây cất một bệnh viện cho người nghèo bị xã hội hắt hủi, nhưng ai nấy cũng đều cho đó là một người điên, vì làm sao có thể xây cất một bệnh viện với nguồn tài chánh duy nhất là việc bán củi. Ban đêm, ngài lấy những đồng tiền kiếm được mua thực phẩm và quần áo cho những người nghèo sống dưới gầm cầu hoặc trong các căn nhà hoang phế. Bởi thế, bệnh viện đầu tiên của ngài là các đường phố ở Granada. Cho đến khi có một người hảo tâm cho Gioan thuê lại một căn nhà với giá rẻ, “bệnh viện” của ngài mới bắt đầu thành hình mà tất cả phương tiện cũng như sự tài trợ là nhờ đi xin. Với kinh nghiệm xin ăn sẵn có, ngài đi khắp đường phố, miệng rao lớn, “Hãy làm việc lành cho chính mình! Vì tình yêu Thiên Chúa, hỡi anh chị em, hãy làm việc lành!” Ban ngày, ngài cõng các bệnh nhân về nhà như khuân đá, khuân củi, để tắm rửa, lau chùi các vết thương và cho họ ăn mặc tử tế. Ban đêm thì ngài cầu nguyện.

Cuộc sống của ngài đã bị chỉ trích bởi những người không thích hành động bác ái vội vàng hấp tấp. Có lần, khi gặp một gia đình đi xin ăn đang đói, ngài chạy vội vào một căn nhà gần đó, lấy cắp nồi cơm và đem cho họ. Lần khác, khi thấy các em bụi đời quần áo rách nát, ngài vào tiệm quần áo và mua quần áo mới cho chúng. Dĩ nhiên, là mua chịu!

Tuy nhiên sự vội vàng ấy đã giúp nhiều người sống sót trong một vụ hoả hoạn ở nhà thương mà ngài đã liều mình xông vào lửa, bế các bệnh nhân ra ngoài. Vào lúc ấy, nhà cầm quyền quyết định dùng súng đại bác để phá hủy một phần nhà thương nhằm ngăn chặn ngọn lửa khỏi cháy lan sang thì ngài đã ngăn cản họ, và vội vàng leo lên mái nhà dùng chiếc búa rìu tách rời phần bị cháy. Ngài thành công, nhưng đồng thời cũng rơi theo mái nhà hực lửa đang sụp đổ. Trong khi mọi người hồi hộp cho số phận vị anh hùng cứu tinh thì lạ lùng thay, Gioan bước ra khỏi đám lửa một cách bình an vô sự.

Khi thánh nhân lâm bệnh nặng thì ngài nghe tin cơn lũ lụt đang trôi dạt những cây gỗ quý về gần thành phố. Không bỏ lỡ cơ hội, ra khỏi giường bệnh, ngài đi vớt gỗ trên dòng sông đang chảy xiết. Và khi một trong những bạn đồng hành của ngài bị rớt xuống sông, ngài đã không nghĩ đến bệnh tình cũng như sự an toàn cho chính mình mà đã nhảy theo cứu vớt. Ngài thất bại không cứu được người ấy, và chính ngài thì bị sưng phổi. Ngài từ trần ngày 8 tháng Ba, ngày sinh nhật thứ năm mươi lăm của ngài, chỉ vì sự yêu thương vội vàng mà đó là động lực của toàn thể cuộc đời ngài.

Thánh Gioan của Thiên Chúa được đặt làm quan thầy của người bán sách, thợ in, bệnh nhân, bệnh viện, y tá, lính cứu hỏa và được coi là người sáng lập tổ chức Sư Huynh Bệnh Viện.

Lời Bàn

Sự khiêm hạ tuyệt đối của Thánh Gioan của Thiên Chúa là điều cảm phục nhất, được thể hiện qua sự vị tha hoàn toàn vì người khác. Thiên Chúa đã ban cho ngài các ơn khôn ngoan, kiên nhẫn, dũng cảm, nhiệt tình và khả năng ảnh hưởng đến người khác. Ngài nhìn thấy sự sai lầm của thời trai tráng, sống xa cách Thiên Chúa, và sau đó đã nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa để bắt đầu một đời sống mới, thực sự yêu thương tha nhân.

 

Ngày 9 Tháng 3

Thánh Frances ở Rôma
(1384 – 1440)

 Đời sống Thánh Frances bao gồm các khía cạnh của đời thường và đời tu trì. Là một người nội trợ tận tụy và duyên dáng, ngài ước ao một đời sống cầu nguyện và phục vụ, do đó ngài tổ chức một nhóm phụ nữ để chăm sóc người nghèo ở Rôma.

Sinh trong một gia đình giàu có, ngay từ thời niên thiếu Frances đã cảm thấy mình yêu mến đời sống tu trì. Nhưng cha mẹ ngài chống đối và một thanh niên quý tộc đã được chọn để làm vị hôn phu.

Khi bắt đầu quen biết với họ hàng nhà chồng, Frances khám phá rằng cô em dâu của mình cũng ước ao một đời sống phục vụ và cầu nguyện. Do đó, cả hai người, Frances và Vannozza, với sự ưng thuận của các ông chồng, họ bắt đầu luyện tập đời sống tâm linh bằng cách siêng năng tham dự Thánh Lễ, thăm viếng kẻ tù đầy, phục vụ trong các bệnh viện, giúp đỡ người nghèo và thành lập một nhà nguyện bí mật trong ngôi tháp bỏ hoang để cùng nhau cầu nguyện.

Nhiều năm trôi qua, bà Frances sinh hạ hai trai và một gái. Với trách nhiệm của một đời sống gia đình, bà đã dành nhiều thời giờ để lo cho chồng con. Gia đình bà trở nên phát đạt dưới sự quán xuyến của bà, nhưng chỉ được vài năm, trận dịch hạch đã càn quét cả nước Ý và cướp đi đứa con trai thứ hai của bà. Ðể giúp vơi bớt đau khổ của các nạn nhân trận dịch, bà dùng tiền của và tài sản để cung ứng cho các nhu cầu của bệnh nhân. Khi mọi nguồn tài chánh đều cạn kiệt, bà Frances và Vannozza đã đi xin từng nhà. Về sau, khi cô con gái qua đời, bà Frances đã biến một phần căn nhà thành bệnh viện.

Càng ngày bà Frances càng tin tưởng rằng một đời sống cho tha nhân thì cần thiết cho thế gian. Với sự hậu thuẫn của đức lang quân, bà Frances bắt đầu thành lập một tổ chức xã hội dành cho các phụ nữ, được gọi là Hiến Sĩ của Ðức Maria (không có lời khấn). Họ chỉ dâng mình cho Chúa và cho sự phục vụ người nghèo.

Khi tổ chức đã được thành lập, bà Frances không sống trong cơ sở của cộng đoàn mà sống ở nhà với chồng trong bảy năm. Cho đến khi người chồng từ trần, bà sống quãng đời còn lại với cộng đoàn để phục vụ những người bần cùng trong xã hội.

Lời Bàn

Nhìn vào đời sống gương mẫu — trung tín với Thiên Chúa và tận tụy với tha nhân — của Thánh Frances nhắc chúng ta nhớ đến Mẹ Têrêsa Calcutta. Ngài nhìn thấy Ðức Giêsu Kitô trong lời cầu nguyện cũng như trong người nghèo. Cuộc đời của Thánh Frances mời gọi chúng ta đừng chỉ tìm kiếm Thiên Chúa trong lời cầu nguyện, mà hãy tận tụy với Ðức Kitô đang sống động trong sự đau khổ của thế giới. Thánh Frances cho chúng ta thấy, một cuộc đời vì tha nhân không nhất thiết chỉ gò bó trong những giới hạn của lời khấn.

Lời Trích

Mẹ Têrêsa có lần nói về người nữ tu trong cộng đoàn của ngài: “Hãy để Ðức Kitô toả sáng và sống động trong và qua người nữ tu khi họ đến các khu tồi tàn. Hãy giúp người nghèo mỗi khi nhìn thấy các nữ tu thì họ được thu hút đến Ðức Kitô và mời Ngài vào trong nhà họ và cuộc đời họ.” Thánh Frances ở Rôma nói: “Một phụ nữ đã lập gia đình mà còn đạo đức thì thật đáng khen ngợi, nhưng họ đừng bao giờ quên rằng mình là người nội trợ. Và đôi khi, họ phải để Thiên Chúa ở bàn thờ mà về với ông chồng trong công việc hàng ngày.

Ngày 10 Tháng 3

    Thánh Ðaminh Saviô
(c. 1857)

    Thanh Daminh SavioNhiều người thánh thiện dường như lại chết yểu. Trong số đó có Thánh Ðaminh Saviô, quan thầy của các chú hội hát.

    Sinh trong một gia đình nông dân ở Riva, Ý Ðại Lợi, ngay từ khi lên bốn, mẹ ngài đã thấy cậu con trai bé nhỏ quỳ cầu nguyện trong một góc nhà. Lúc năm tuổi, ngài là chú giúp lễ. Khi lên bẩy, ngài được Rước Lễ Lần Ðầu. Vào ngày trọng đại ấy, ngài đã chọn phương châm: “Thà chết chứ không phạm tội!” và ngài luôn luôn giữ điều ấy.

    Quả thật, Ðaminh là một cậu bé bình thường nhưng lòng yêu mến Thiên Chúa của cậu thật phi thường.

    Vào lúc 12 tuổi, Ðaminh theo học trường của Thánh Don Bosco. Qua cách cầu nguyện của Ðaminh, mọi người trong trường đều nhận thấy cậu thật khác biệt. Ðaminh yêu quý tất cả mọi người, và dù trẻ hơn họ, cậu cũng lo lắng để ý đến họ. Cậu sợ rằng họ sẽ mất ơn sủng của Thiên Chúa vì tội lỗi.

    Có lần, chúng bạn đưa cho cậu xem hình ảnh đồi trụy. Vừa thoáng nhìn thấy, cậu đã cầm lấy tờ báo xé tan ra từng mảnh và hỏi, “Thiên Chúa ban cho chúng ta cặp mắt để nhìn những điều xấu xa như vậy hả? Các anh không thấy xấu hổ sao?”

    Một lần khác, hai đứa con trai giận dữ lấy đá ném nhau. Thấy thế, Ðaminh đứng vào giữa, cầm tượng thánh giá nhỏ đưa lên cao, và nói, “Trước khi đánh nhau, mấy anh hãy nhìn vào thánh giá và nói, ‘Ðức Giêsu Kitô vô tội khi Ngài chịu chết đã tha thứ cho kẻ giết mình. Tôi là kẻ tội lỗi, và tôi sẽ làm đau khổ Ngài khi không tha thứ cho kẻ thù.’ Rồi sau đó mấy anh hãy bắt đầu — và hãy ném đá tôi trước!”

    Hai anh kia cảm thấy xấu hổ, xin lỗi nhau và hứa sẽ đi xưng tội.

    Sức khoẻ của Ðaminh rất mỏng manh, thường hay đau yếu luôn và đưa đến biến chứng về phổi khiến cậu phải về nhà để tĩnh dưỡng. Tuy nhiên, khi ở nhà, bệnh tình lại càng gia tăng nên đã được chịu các Bí Tích sau cùng. Lúc ấy Ðaminh mới 15 tuổi, nhưng cậu không sợ chết. Thật vậy, cậu vô cùng sung sướng khi nghĩ đến lúc được lên thiên đàng. Ngay trước khi chết, cậu cố gượng ngồi dậy. Cậu nói thầm vào tai cha mình, “Giã biệt bố.” Rồi bỗng dưng mặt cậu tươi sáng với nụ cười rạng rỡ. Cậu kêu lên, “Con đang nhìn thấy những điều kỳ diệu!” và trút hơi thở cuối cùng.

    Chính Thánh Don Bosco là người viết lại tiểu sử của Ðaminh Saviô.

    Ðaminh Saviô được phong thánh năm 1954. Trong buổi lễ phong thánh, Thánh Giáo Hoàng Piô X đã nói, “Một thiếu niên như Ðaminh, là người cố gắng giữ mình sạch tội từ khi rửa tội cho đến khi chết, quả thật là một vị thánh.”

    Lời Trích

    Thánh Ðaminh Saviô thường nói, “Tôi không làm được những điều trọng đại. Nhưng tôi muốn tất cả những gì tôi làm, ngay cả những gì nhỏ nhặt nhất, là để vinh danh Thiên Chúa.”

 
Ngày 11 Tháng 3

Thánh Gioan Ogilvie
(1579 – 1615)

Thánh Gioan Ogilvie sinh trong một gia đình Tô Cách Lan mà nửa Công Giáo, nửa Tin Lành Presbyterian. Cha ngài theo phái Calvin (*) và cũng muốn Gioan trở thành người của giáo phái ấy nên đã gửi ngài vào đất liền để đi học. Ở đây Gioan thích thú theo dõi những cuộc tranh luận giữa các học giả Công Giáo và Calvin. Bị hoang mang về những tranh luận của các học giả Công Giáo, ngài tìm đến Kinh Thánh. Hai câu sau đây đã thức tỉnh ngài: “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu chuộc, và nhận biết chân lý,” và “Hãy đến cùng Ta những ai mệt mỏi và ê chề, Ta sẽ thêm sức cho ngươi.

Dần dà, Gioan hiểu rằng Giáo Hội Công Giáo yêu quý tất cả mọi người. Trong những người ấy, ngài nhận thấy có nhiều vị tử đạo. Ngài quyết định trở thành người Công Giáo và được đón nhận vào Giáo Hội tại Louvain, nước Bỉ, năm 1596 khi 17 tuổi.

Gioan tiếp tục việc học, đầu tiên với các cha dòng Biển Ðức, sau đó là một sinh viên của học viện Dòng Tên ở Olmutz. Ngài gia nhập dòng Tên và trong 10 năm kế tiếp, ngài chăm chỉ rèn luyện tâm linh cũng như kiến thức. Ðược thụ phong linh mục ở Pháp năm 1610, ngài gặp hai linh mục dòng Tên vừa mới từ Tô Cách Lan trở về, sau khi bị bắt và bị cầm tù. Các ngài thấy ít có hy vọng thành công trong việc rao giảng Tin Mừng dưới sự khắt khe của chính quyền nước ấy. Nhưng một ngọn lửa đã nhen nhúm trong lòng Cha Gioan. Trong hơn hai năm kế đó, ngài đã khẩn khoản xin đi truyền giáo ở Tô Cách Lan

Ðược bề trên cho phép, ngài bí mật vào Tô Cách Lan giả dạng người buôn ngựa hoặc một quân nhân trở về từ cuộc chiến Âu Châu. Thấy không thể thi hành được việc gì đáng kể cho thiểu số Công Giáo ở Tô Cách Lan, Cha Gioan trở về Balê để hội ý bề trên. Bị khiển trách vì đã tự ý bỏ nhiệm vụ ở Tô Cách Lan, ngài được sai trở lại đó. Lần này, ngài hăng say hơn và có một vài thành công trong việc hoán cải cũng như kín đáo phục vụ người Công Giáo Tô Cách Lan. Nhưng không bao lâu, ngài bị phản bội, bị bắt và bị đưa ra toà.

Phiên xử ngài kéo dài đến 26 giờ đồng hồ mà ngài không được ăn uống gì. Ngài bị cầm tù và không cho ngủ. Trong tám ngày và đêm, ngài bị lôi đi như một con vật, bị đâm bằng cây vót nhọn, và tóc bị giật ra từng mảng. Tuy nhiên, ngài vẫn không chịu tiết lộ tên các người Công Giáo hoặc chấp nhận luật lệ của vua về vấn đề tôn giáo. Ngài trải qua phiên tòa lần thứ hai và thứ ba nhưng vẫn cương quyết giữ vững lập trường. Trong phiên tòa cuối cùng, ngài quả quyết với các quan tòa: “Trong tất cả những gì liên hệ đến vua, tôi sẽ vâng lời một cách mù quáng; nếu quyền lực trần thế của vua bị tấn công, tôi sẽ đổ giọt máu cuối cùng vì vua. Nhưng trong những luật lệ tôn giáo mà vua đã áp đặt cách bất công, tôi không thể và cũng không phải vâng theo.

Bị kết án tử hình về tội phản quốc, ngài đã trung tín cho đến cùng, ngay cả khi đứng trên đoạn đầu đài và được hứa sẽ trao trả tự do nếu từ chối đức tin. Ngài bị treo cổ ở Glasgow năm 1615 lúc ba mươi sáu tuổi.

Cha Gioan Ogilvie được phong thánh năm 1976, là vị thánh Tô Cách Lan đầu tiên kể từ năm 1250.

* Phái Calvin là một phương thức giải thích Phúc Âm theo John Calvin. Calvin sống ở Pháp trong thập niên 1500 đồng thời với Martin Luther, người phát động phong trào Cải Cách Tin Lành.

Phương thức Calvin bám vào các điểm cực đoan của phúc âm và tìm cách đưa ra các công thức thần học chỉ dựa trên lời Chúa. Họ nhắm đến sự tối thượng của Thiên Chúa, khẳng định rằng Thiên Chúa thì có thể và sẵn sàng thể hiện bất cứ điều gì Ngài muốn đối với tạo vật, vì Ngài thông suốt mọi sự, ở khắp mọi nơi và toàn năng. Họ cũng cho rằng trong Phúc Âm có các dạy dỗ sau: Thiên Chúa, qua ơn sủng tối cao, Ngài tiền định cho con người được ơn cứu độ; Ðức Giêsu chỉ chết cho những ai đã được tiền định; Thiên Chúa tái sinh những ai mà Ngài thấy họ có thể và muốn chọn theo Thiên Chúa; và những người đã được cứu độ không thể nào mất ơn ấy.

 

Ngày 12 Tháng 3

Chân Phước Angela Salawa
(1881 – 1922)

 Angela phục vụ Ðức Kitô và những người bé mọn của Ðức Kitô với tất cả sức mạnh của ngài.

Sinh ở Siepraw, gần Kraków, Ba Lan, ngài là người con thứ 11 của ông bà Bartlomiej và Ewa Salawa. Vào năm 1897, ngài đến Kraków để sống với người chị Têrêsa. Trong Thế Chiến I, ngài giúp đỡ các tù nhân chiến tranh bất kể quốc tịch hay tôn giáo. Ngài thích nghiền ngẫm các văn bản của Thánh Têrêsa Avila và Thánh Gioan Thánh Giá.

Cũng trong thời chiến, ngài đã hết mình chăm sóc các thương binh của Thế Chiến I. Sau năm 1918, vì lý do sức khoẻ ngài phải chấm dứt công việc tông đồ này. Trong nhật ký, ngài tâm sự với Ðức Kitô, “Con muốn Chúa được kính mến nhiều cũng như khi Chúa bị khinh miệt.” Ở chỗ khác, ngài viết, “Lạy Chúa, con sống bởi thánh ý Chúa. Chết hay sống là tùy thuộc ý Chúa muốn; xin gìn giữ con vì Chúa có thể làm điều ấy.

Trong lễ phong chân phước năm 1991 ở Kraków, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Chính trong thành phố này mà ngài đã hoạt động, đã chịu đau khổ và đã nên thánh. Trong khi sống theo tinh thần của Thánh Phanxicô, ngài vẫn đáp ứng một cách phi thường với tác động của Chúa Thánh Thần” (Báo L’Observatore Romano, tập 34, số 4, 1991)

Lời Bàn

Ðừng bao giờ lầm tưởng sự khiêm hạ với thiếu tự tin, thiếu ý chí và không có hướng đi. Chân Phước Angela đã đem Tin Mừng và sự giúp đỡ vật chất cho một số người “bé mọn” của Ðức Kitô. Sự hy sinh này phải khích động chúng ta hành động tương tự.

Lời Trích

Cha Henri de Lubac, dòng Tên, đã viết: “Các Kitô Hữu tốt lành nhất và đầy sức sống nhất thì không thể tìm thấy trong những người khôn ngoan hay tài giỏi, người trí thức hay có đầu óc chính trị, hoặc những người có địa vị xã hội. Bởi đó, những gì họ nói thì không được báo chí để ý đến; những gì họ làm thì công chúng không ai biết. Ðời sống của họ ẩn khuất dưới con mắt thế gian, và nếu họ có được chút gì nổi tiếng, điều đó thường xảy đến cách muộn màng, và rất ngoại lệ, và luôn luôn kèm theo nguy cơ bị bóp méo” (The Splendor of the Church [Sự Huy Hoàng của Giáo Hội], trang 187).

 
Ngày 13 Tháng 3

Thánh Nicôla Owen
(c. 1606)

 Thánh Nicôla, thường gọi là “Tiểu Gioan”, thân hình nhỏ nhắn nhưng lại vĩ đại về sự quý mến mà các linh mục dòng Tên dành cho ngài.

Sinh ở Oxford, ngài hành nghề thợ mộc và đã cứu được mạng sống của nhiều linh mục cũng như giáo dân ở Anh Quốc trong thời kỳ cấm cách (1559 – 1829), mà nhiều đạo luật đã được ban hành để trừng phạt người Công Giáo vì sống đức tin.

Trong khoảng thời gian 20 năm, Thánh Nicôla đã dùng tài năng của mình để thiết lập những nơi ẩn nấp kín đáo cho các linh mục trên toàn quốc. Công trình của ngài — được thiết kế và dàn dựng bởi chính tay ngài — quá kín đáo đến nỗi biết bao lần lục soát mà quan quân không thể nào tìm thấy các linh mục ẩn nấp trong đó. Ngài có tài tìm kiếm, và thiết lập những nơi an toàn như địa đạo ngầm dưới đất, khoảng cách giữa hai bức tường, và các ngõ ngách không cách chi vào được. Ngay cả có lần ngài sắp đặt kế hoạch để cứu thoát hai linh mục dòng Tên khỏi nhà tù ở Luân Ðôn.

Bất cứ khi nào Thánh Nicôla bắt đầu hoạch định những nơi ẩn nấp, ngài thường khởi sự bằng việc rước Mình Thánh Chúa, và trong suốt tiến trình dàn dựng đầy nguy hiểm ấy, ngài thường đến với Thiên Chúa qua sự cầu nguyện.

Sau nhiều năm phục vụ với công việc khác thường ấy, ngài đã gia nhập dòng Tên với tư cách thầy trợ sĩ, tuy nhiên sự liên hệ này đã được giữ bí mật với những lý do chính đáng.

Sau nhiều lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, ngài bị bắt năm 1594. Mặc dù bị tra tấn dã man, ngài vẫn không tiết lộ danh tính của các người Công Giáo. Sau khi được thả tự do với một số tiền hối lộ, “Tiểu Gioan” lại trở về với công việc cũ. Ngài bị bắt lại vào năm 1606. Lần này ngài bị tra tấn quá dã man và đã chết vì đau đớn. Quân cai ngục cố tuyên truyền rằng ngài đã thú nhận tội lỗi và tự tử, nhưng hành động anh hùng và sự thống khổ của ngài sau đó đã được lan truyền khắp nước.

Ngài được Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI phong thánh năm 1970 như một trong 40 vị Tử Ðạo của Anh Quốc và Wales.

Ngày 14 Tháng Ba
Thánh Maximilian

(c. 295)

 Ngay từ thời Giáo Hội tiên khởi, chúng ta may mắn có được một tài liệu quý báu và hầu như không một chút thêm thắt trong bài tường thuật tử đạo của Thánh Maximilian ở Algeria ngày nay.

Bị điệu ra trước quan thống đốc Dion, Thánh Maximilian từ chối không chịu gia nhập đạo quân La Mã với lý luận như sau, “Tôi là Kitô Hữu, tôi không thể làm sự dữ, tôi không thể phục vụ trong quân đội.”

Dion trả lời: “Ngươi phải phục vụ hoặc là chết.”

Maximilian đáp lại: “Tôi không bao giờ phục vụ. Ông có thể chém đầu tôi, nhưng tôi sẽ không bao giờ là một người lính của thế giới này, vì tôi là một người lính của Ðức Kitô. Tôi thuộc về đạo binh của Thiên Chúa, và tôi không thể chiến đấu cho thế giới này. Tôi đã nói với ông, tôi là một Kitô Hữu.”

Dion hỏi: “Dưới quyền của Diocletian và Maximian, Constantius và Galerius, cũng có những người lính là Kitô Hữu phục vụ thì sao.”

Maximilian trả lời: “Ðó là vấn đề của họ. Tôi cũng là một Kitô Hữu, nhưng tôi không thể phục vụ.”

Dion hỏi: “Nhưng làm lính thì có thiệt hại gì?”

Maximilian trả lời: “Ông biết rõ điều đó.”

Dion nói: “Nếu ngươi không thi hành nghĩa vụ ta sẽ kết án tử hình vì sự khinh thường quân đội.”

Thánh Maximilian trả lời: “Tôi sẽ không chết. Khi tôi từ giã cõi đời, linh hồn tôi sẽ sống với Ðức Kitô là Thiên Chúa của tôi.

Lúc ấy Thánh Maximilian 21 tuổi và ngài đã vui mừng dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Sau khi chứng kiến sự hành quyết, cha thánh nhân vui mừng trở về nhà, ông cảm tạ Thiên Chúa vì có được một món quà thật tốt đẹp để dâng lên Thiên Chúa.

 
Ngày 15 Tháng 3

Thánh Louise de Marillac
(c. 1660)

Thánh Louise sinh ở Ferrieres-en-Brie gần Meux, nước Pháp, mồ côi mẹ khi còn nhỏ, và khi được 15 tuổi thì mồ côi cha. Ao ước của thánh nữ là trở nên một nữ tu nhưng cha giải tội đã ngăn cản, và sau đó ngài kết hôn với ông Antony LeGras. Trong hôn nhân này họ có được một đứa con trai. Nhưng sau đó không lâu, ông Antony đã từ giã cõi đời sau một thời gian đau yếu lâu dài.

Bà Louise may mắn có được các cha linh hướng khôn ngoan và dễ mến, đó là Thánh Francis de Sales, và người bạn của ngài là Ðức Giám Mục của Belley, nước Pháp. Bà Louise không gặp hai vị thường xuyên, nhưng tận trong thâm tâm, bà linh cảm thấy rằng mình sẽ đảm nhận một công việc nặng nề dưới sự hướng dẫn của một người chưa bao giờ quen biết. Ðó là vị linh mục thánh thiện Vincent, mà sau này là Thánh Vincent de Paul.

Lúc đầu, Cha Vincent do dự nhận lời làm cha giải tội cho bà Louise, vì sự bận rộn của ngài với tổ chức “Các Chị Em Bác Ái.” Hội viên của tổ chức này là các bà quý tộc có lòng nhân từ, giúp đỡ cha chăm sóc người nghèo và các em bị bỏ rơi, là công việc rất cần thiết trong thời gian ấy. Nhưng các bà cũng phải bận rộn với nhiệm vụ và công việc gia đình. Trong khi công việc của cha thì cần rất nhiều người giúp đỡ, nhất là những nông dân vì họ gần gũi với người nghèo và dễ có cảm tình với họ. Ngài cũng cần ai đó có thể dạy cho họ biết đọc biết viết và tổ chức sinh hoạt hội đoàn cho họ.

Chỉ sau một thời gian khá lâu, khi Cha Vincent ngày càng quen biết với bà Louis, thì ngài mới nhận ra rằng bà là người mà Chúa đã gửi đến để đáp lại lời cầu xin của cha. Bà Louis thông minh, khiêm tốn và có sức chịu đựng bền bỉ. Sau một thời gian thi hành các công việc mà cha giao phó, bà tìm thêm được bốn phụ nữ bình dị khác đến tiếp tay. Căn nhà thuê của bà ở Balê đã trở thành trung tâm săn sóc người nghèo và người đau yếu. Và đó là khởi đầu của tu hội Nữ Tu Bác Ái của Thánh Vincent de Paul, (mặc dù Cha Vincent muốn gọi tổ chức này là “Nữ Tử” Bác Ái). Bà tuyên khấn năm 1634 và tu hội đã thu hút được nhiều người tham gia.

Cha Vincent thường từ tốn và khôn ngoan trong cách cư xử với bà Louis và tổ chức mới này. Ngài nói không bao giờ ngài muốn thành lập một cộng đoàn mới, mà chính là Thiên Chúa thi hành mọi sự. Cha nói, “Tu viện của con sẽ là nhà của người bệnh; phòng của con là phòng cho thuê mướn; nhà nguyện của con là nhà thờ của giáo xứ; khuôn viên nhà dòng là đường phố hay các khu vực nhà thương.” Y phục của họ là y phục của phụ nữ nông dân. Mãi cho đến vài năm sau, Cha Vincent de Paul mới cho phép bốn phụ nữ khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Và phải mất nhiều năm hoạt động thì Tòa Thánh mới chính thức công nhận tu hội này và đặt dưới sự hướng dẫn của Cha Vincent và Tu Hội Truyền Giáo.

Bà Louis đi khắp nước Pháp, thành lập chi nhánh trong các bệnh viện, cô nhi viện và các tổ chức khác. Cho đến khi từ trần, ngày 15 tháng Ba 1660, tu hội của bà đã có trên 40 nhà ở nước Pháp. Kể từ đó họ đã phát triển trên toàn thế giới.

Bà Louise de Marillac được Ðức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh năm 1934, và năm 1960 thánh nữ được Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đặt làm Quan Thầy các Cán Sự Xã Hội.

 

Ngày 16 Tháng 3

Thánh Clement Mary Hofbauer
(1751 – 1820)

 Có thể gọi Thánh Clement là vị sáng lập thứ hai của dòng Chúa Cứu Thế, vì chính ngài là người đã đem tu hội của Thánh Alphôngsô Liguori đến với người dân ở phía bắc rặng Alp.

Sinh trong một gia đình nghèo ở Moravia, ngài là con thứ chín trong mười hai người con, và tên rửa tội là Gioan. Mặc dù ngài ao ước trở nên một linh mục, nhưng vì không có tiền đi học, ngài phải học nghề làm bánh mì. Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp để giúp ngài thể hiện ước mơ ấy.

Ngài được nhận vào làm bánh trong một đan viện, là nơi ngài có thể tham dự các lớp Latinh. Sau khi vị tu viện trưởng từ trần, Gioan thử sống đời ẩn tu nhưng lúc ấy Hoàng Ðế Joseph II ra lệnh hủy bỏ các đan viện, Gioan lại trở về Vienna hành nghề làm bánh. Một ngày kia, sau khi dự lễ tại vương cung thánh đường Thánh Stêphanô, trong cơn mưa tầm tã ngài đã giúp hai bà quý tộc gọi xe kéo. Qua cuộc đối thoại, hai bà được biết Gioan muốn đi tu nhưng không đủ tài chánh. Và họ đã rộng lượng giúp đỡ Gioan cũng như bạn của ngài là Tađêô, theo học trong chủng viện. Cả hai đến Rôma, là nơi họ được lôi cuốn bởi ý nghĩa đời sống tu trì của Thánh Alphôngsô. Và hai người đã thụ phong linh mục năm 1785 trong dòng Chúa Cứu Thế.

Sau khi mới chịu chức, lúc ấy đã 34 tuổi, Gioan được gọi là Clement Mary, cùng với Tađêô được sai trở về Vienna. Nhưng sự khó khăn tôn giáo ở đây đã khiến hai người phải bỏ lên miền bắc đến Warsaw, Ba Lan. Ở đây họ gặp rất nhiều người Công Giáo nói tiếng Ðức bơ vơ không có linh mục chăm sóc vì chính quyền đàn áp các cha dòng Tên. Ðầu tiên hai ngài phải sống rất khó nghèo và rao giảng ngoài trời. Sau đó các ngài được giao cho nhà thờ Thánh Benno để trông coi, và trong vòng chín năm kế tiếp, mỗi ngày hai ngài phải giảng năm lần, hai lần bằng tiếng Ðức và ba lần bằng tiếng Ba Lan, các ngài đã hoán cải được nhiều linh hồn về với Giáo Hội. Cả hai đều tích cực trong công việc xã hội giúp đỡ người nghèo, sáng lập cô nhi viện và mở một trường nam sinh.

Nhờ lôi cuốn được nhiều người đến dâng mình cho Chúa, các ngài đã có thể gửi các vị truyền giáo đến Ba Lan, Ðức và Thụy Ðiển. Tất cả các cơ sở truyền giáo này sau đó đều bị phá hủy vì những căng thẳng chính trị và tôn giáo thời đó. Sau 20 năm làm việc vất vả, chính Cha Clement bị bỏ tù và bị trục xuất khỏi nước. Và sau một lần bắt bớ khác ngài mới đến được Vienna, là nơi ngài sinh sống và hoạt động trong 12 năm cuối đời. Không bao lâu, ngài nổi tiếng là “vị tông đồ của Vienna“, ngài nghe người giầu cũng như nghèo xưng tội, đi thăm kẻ liệt, cố vấn cho những người thế lực, chia sẻ sự thánh thiện của ngài với tất cả mọi người trong thành phố. Công trình đáng kể nhất của ngài là thành lập một trường đại học Công Giáo trong thành phố yêu dấu này.

Sự bách hại vẫn theo đuổi ngài, và nhà cầm quyền đã buộc ngài phải ngừng rao giảng. Có lần giới thẩm quyền cao cấp nhất cố gắng trục xuất ngài, nhưng sự thánh thiện và danh tiếng đã bảo vệ ngài cũng như sự phát triển của dòng Chúa Cứu Thế đã giữ chân ngài lại. Cho đến khi ngài qua đời vào năm 1820, các nỗ lực của ngài đã giúp cho dòng Chúa Cứu Thế được thiết lập vững bền ở mạn bắc rặng Alp.

Ngài được phong thánh năm 1909.

 
Ngày 17 Tháng 3

Thánh Patrick
(389?-461?)

 Truyền thuyết về Thánh Patrick thì quá nhiều; nhưng khi nhìn đến hai đức tính chắc chắn của ngài: khiêm tốn và dũng cảm thì điều đó có ích lợi cho chúng ta. Chính thái độ cương quyết khi chấp nhận đau khổ cũng như thành công đã hướng dẫn cuộc đời của Thánh Patrick, một khí cụ của Thiên Chúa, để chiến thắng cho Ðức Kitô hầu như tất cả tâm hồn người Ái Nhĩ Lan.

Chi tiết về đời ngài thì không chắc chắn. Về nơi sinh trưởng của Thánh Patrick, có người cho là ở Kilpatrick, Tô Cách Lan, có người nói ở Cumberland, Anh Quốc. Cha mẹ ngài là người Rôma sống ở Anh Quốc với nhiệm vụ cai quản các bán đảo.

Khoảng 14 tuổi, chính ngài và phần lớn các nô lệ cũng như các quần thần của cha ngài bị hải tặc Ái Nhĩ Lan bắt và bán làm nô lệ để chăn cừu. Trong thời gian này, Ái Nhĩ Lan là đất của người Druid và ngoại giáo. Ở đây, ngài học ngôn ngữ và phong tục của dân tộc đang bắt giữ ngài.

Sáu năm sau, Patrick vượt thoát, có lẽ đến nước Pháp, và sau đó trở về Anh đoàn tụ với gia đình. Trong thời gian bị bắt tinh thần ngài thay đổi hoàn toàn. Ngài bắt đầu học làm linh mục, và được chịu chức bởi Thánh Germanus, Ðức Giám Mục của Auxerre.

Sau đó, khi 43 tuổi ngài được tấn phong giám mục. Trong một thị kiến, dường như “mọi trẻ con ở Ái Nhĩ Lan từ trong lòng mẹ vươn cánh tay” đến ngài. Ngài hiểu thị kiến này là một lời mời gọi đi rao giảng Tin Mừng cho người ngoại giáo Ái Nhĩ Lan. Ngài đến phía tây và phía bắc, là nơi chưa bao giờ đức tin được rao giảng ở đây, và ngài đã được sự bảo vệ của các vua chúa trong vùng và đã hoán cải rất nhiều người.

Ngài tấn phong nhiều linh mục, chia quốc gia này thành các giáo phận, tổ chức các công đồng, thành lập vài đan viện và tiếp tục thúc giục dân chúng sống thánh thiện hơn.

Ngài chịu đau khổ vì bị các tăng sĩ ngoại giáo chống đối, và bị chỉ trích cả ở Anh và Ái Nhĩ Lan vì đường lối truyền giáo của ngài.

Trong 40 năm rao giảng và hoán cải, ngài đã làm nhiều phép lạ và đã viết Confessio nói về tình yêu của ngài dành cho Thiên Chúa. Ngài từ trần năm 461 ở Saul, là nơi ngài xây dựng nhà thờ đầu tiên.

Lời Bàn

Ðiểm đặc biệt của Thánh Patrick là sự bền bỉ trong các nỗ lực. Chỉ khi nghĩ đến tình trạng của Ái Nhĩ Lan lúc ngài mới bắt đầu truyền giáo, với phạm vi rộng lớn mà ngài phải lao nhọc và hạt giống đức tin mà ngài đã vun trồng hiện vẫn tiếp tục nẩy nở và phát triển, thì người ta mới thán phục con người của Thánh Patrick. Sự thánh thiện của một con người chỉ có thể nhận biết qua kết quả của họ.

Lời Trích

Ðức Kitô che chở tôi hôm nay: Ðức Kitô ở với tôi, Ðức Kitô ở trước tôi, Ðức Kitô ở sau tôi, Ðức Kitô ở trong tôi, Ðức Kitô ở dưới tôi, Ðức Kitô ở trên tôi, Ðức Kitô ở bên phải tôi, Ðức Kitô ở bên trái tôi, Ðức Kitô ở với tôi khi nằm nghỉ, Ðức Kitô ở với tôi khi thức dậy, Ðức Kitô ở trong tâm hồn bất cứ ai khi nghĩ đến tôi, Ðức Kitô ở trong mắt những ai khi nhìn thấy tôi, Ðức Kitô ở trong tai những ai khi nghe lời tôi” (trích từ ca vịnh của Thánh Patrick).

 

Ngày 18 Tháng 3

Thánh Cyril ở Giêrusalem
(315? – 386)

Những khó khăn trong Giáo Hội ngày nay chỉ là thiểu số so với các chấn động của lạc giáo Arian thời ấy khi họ từ chối thiên tính của Ðức Kitô. Thánh Cyril bị vướng vào vòng tranh luận, bị Thánh Giêrôme kết án là người theo tà thuyết Arian và sau cùng ngài đã được thanh minh bởi những người của thời ấy và được tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1822.

Chúng ta không biết nhiều về cuộc đời thơ ấu của Thánh Cyril. Các sử gia ước đoán ngài sinh trong khoảng năm 315, và lớn lên ở Giêrusalem. Về gia đình ngài, có lẽ cha mẹ ngài là Kitô Hữu và dường như ngài rất thảo kính cha mẹ. Ngài thúc giục các dự tòng kính trọng các bậc sinh thành “vì dù chúng ta có đền đáp thế nào đi nữa, cũng không thể nào bù đắp được công ơn sinh thành của cha mẹ.” Chúng ta còn được biết ngài có một em gái và một cháu trai, Gelasius, sau này là giám mục và là thánh.

Qua các văn bút ngài để lại, dường như ngài thuộc về nhóm gọi là Solitary (Ðộc Thân). Họ là những người sống tại gia nhưng giữ đức khiết tịnh, khổ hạnh và phục vụ.

Sau khi được tấn phong là phó tế và sau đó là linh mục, đức giám mục Maximus đã giao cho ngài trách nhiệm dạy giáo lý cho dự tòng và tân tòng. Sách Giáo Lý ngài viết vẫn có giá trị như một thí dụ điển hình cho nền tảng thần học và phụng tự của Giáo Hội vào giữa thế kỷ thứ tư.

Khi Ðức Maximus từ trần, Cha Cyril được tấn phong làm giám mục của Giêrusalem. Vì ngài được sự hỗ trợ của giám mục Caesarea là Acacius, người theo lạc thuyết Arian, nên phe chính giáo chỉ trích việc bổ nhiệm này, và phe Arian lại nghĩ rằng họ có thêm một đồng minh. Cả hai phe đều sai lầm, và Ðức Cyril thì kẹt ở giữa.

Khi nạn đói càn quét Giêrusalem, dân chúng chạy đến Ðức Cyril xin giúp đỡ. Vì không có tiền, ngài phải bán một số đồ dùng của nhà thờ để giúp đỡ người đói. Nhưng có những lời dèm pha rằng một số áo lễ được dùng làm y phục cho kép hát.

Sự bất hòa giữa Acacius và Ðức Giám Mục Cyril bắt đầu là về vấn đề quản hạt chứ không phải vấn đề tín lý. Là giám mục của Caesarea, Acacius nghĩ rằng mình có toàn quyền trên các giám mục Palestine. Nhưng Ðức Giám Mục Cyril lý luận rằng thẩm quyền của Acacius không bao gồm Giêrusalem vì Giêrusalem là một “tông tòa” — là ngai toà do các tông đồ thiết lập. Khi Ðức Cyril không hiện diện trong các công đồng mà Acacius triệu tập, Acacius và phe cánh đã kết án ngài là đã bán vật dụng của nhà thờ để kiếm tiền và trục xuất ngài.

Ðức Cyril phải lưu đầy ở Tarsus trong khi chờ đợi việc kháng cáo. Sau đó, ngài xuất hiện trong Công Ðồng Seleucia, trong đó phe bán-Arian (vừa theo chính giáo, vừa theo Arian) chiến thắng. Kết quả là Acacius bị truất phế và Ðức Cyril được trở về ngai toà cũ. Tuy nhiên, hoàng đế không hài lòng về kết quả này, và một lần nữa, Ðức Giám Mục Cyril lại bị trục xuất và chỉ trở về khi hoàng đế Julian lên ngôi. Ðược vài năm sau, một sắc lệnh của tân hoàng đế Valens trục xuất tất cả các giám mục được Julian hồi phục, và Ðức Cyril lại phải lưu đầy cho tới khi Valens qua đời.

Có thể nói một nửa nhiệm kỳ giám mục của Ðức Cyril là bị đầy ải. Sau cùng, ngài trở về Giêrusalem, lúc ấy đã tan nát vì lạc giáo, ly giáo và tranh giành, tàn lụi vì tội lỗi. Năm 381, ngài đến tham dự Công Ðồng Constantinople, là công đồng hoàn tất bản kinh Tin Kính Nicene và phe Arian bị kết án. Ðức Cyril được thanh minh và được tẩy sạch mọi tiếng xấu trước đây, các giám mục tham dự Công Ðồng đã ca ngợi ngài như vị quán quân chính thống chống với bè phái Arian.

Ðức Cyril sống an bình tám năm ở Giêrusalem và từ trần năm 386, khi ngài khoảng bảy mươi tuổi.

Lời Bàn

Những ai tưởng rằng đời sống các thánh thật đơn giản và êm đềm, không một chút tranh chấp trần tục, chắc phải kinh hoàng về cuộc đời Thánh Cyril. Tuy nhiên, mọi Kitô Hữu không thể thoát khỏi những khó khăn như chính Thầy mình đã trải qua. Theo đuổi chân lý là một con đường phức tạp và không cùng, và mọi người thiện tâm đều đau khổ vì sự tranh giành và lầm lạc. Những chướng ngại về tri thức, tình cảm và chính trị có thể trì trệ đôi chút những người như Thánh Cyril. Nhưng đời sống của họ, nhìn toàn bộ, sẽ là những mẫu mực của sự thành tâm và dũng cảm.

 
Ngày 19 Tháng 3

Thánh Giuse

Phúc Âm đã ca ngợi Thánh Giuse là người “công chính”. Ý nghĩa của chữ “công chính” rất sâu xa.

Khi Phúc Âm nói Thiên Chúa “công chính hóa” người nào, điều đó có nghĩa Thiên Chúa, là Ðấng cực thánh và “chính trực”, biến đổi người đó bằng cách cho họ được chia sẻ sự thánh thiện của Thiên Chúa, và bởi đó họ đáng được Thiên Chúa yêu mến.

Khi nói Thánh Giuse “công chính”, Phúc Âm muốn nói rằng ngài hoàn toàn mở lòng cho tất cả những gì Thiên Chúa muốn làm cho ngài. Ngài trở nên thánh thiện vì tự mở lòng cho Thiên Chúa.

Với những gì còn lại chúng ta dễ phỏng đoán. Hãy suy nghĩ về tình yêu mà ngài đã theo đuổi và dành được con tim của Ðức Maria, và sự sâu xa của tình yêu mà hai người đã chia sẻ cho nhau trong cuộc hôn nhân.

Khi Thánh Giuse quyết định từ bỏ Ðức Maria khi thấy người có thai, điều này không trái với sự thánh thiện của Thánh Giuse. Phúc Âm có ghi lại một chữ quan trọng là ngài dự định thi hành việc này “cách âm thầm” vì ngài là “một người chính trực, nhưng không muốn tố giác bà để bị xấu hổ” (Mátthêu 1:19).

Người công chính thì đơn sơ, vui vẻ, hết lòng vâng lời Thiên Chúa — khi kết hôn với Ðức Maria, khi đặt tên cho Hài Nhi Giêsu, khi săn sóc gia thất ở Ai Cập, khi đem gia thất về lại Nagiarét, khi sống âm thầm trong bao năm trường với đức tin và dũng cảm.

Vì Thánh Giuse không xuất hiện trong cuộc đời rao giảng công khai của Ðức Giêsu, nhiều sử gia tin rằng có lẽ Thánh Giuse đã từ trần trước khi Ðức Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng.

Thánh Giuse là quan thầy của những người hấp hối, vì người ta cho rằng khi ngài từ trần có Ðức Giêsu và Ðức Maria ở bên cạnh, đó là điều mà tất cả chúng ta đều mong ước khi từ giã cõi đời.

Thánh Giuse còn là quan thầy của Giáo Hội hoàn vũ, của các người làm cha, các thợ mộc, và vấn đề công bằng xã hội.

Lời Bàn

Phúc Âm không nói gì nhiều về Thánh Giuse trong những năm sau khi trở về Nagiarét, ngoại trừ biến cố tìm thấy Ðức Giêsu trong Ðền Thờ (xem Luca 2:41-51). Ðiều này có thể hiểu Thiên Chúa muốn chúng ta biết rằng thánh gia cũng giống như mọi gia đình khác, những biến cố xảy ra cho thánh gia cũng xảy ra cho bất cứ gia đình nào, bởi đó khi bản tính bí ẩn của Ðức Giêsu bắt đầu lộ diện thì mọi người đều không tin là Ngài có thể xuất thân từ gia đình đó: “Ông ấy không phải là con bác thợ mộc hay sao? Mẹ của ông ấy không phải là bà Maria sao…? (Mt 13:55a). Và “Có gì hay ho xuất phát từ Nagiarét?” (Gioan 1:46b).

Lời Trích

Thánh Giuse được Cha trên trời chọn để làm người bảo vệ đáng tin cậy, che chở những kho báu của Ngài, đó là Chúa Con và Ðức Maria, vị hôn thê của Thánh Giuse. Người đã thi hành nhiệm vụ này với sự trung tín cho đến khi Thiên Chúa gọi người, và nói: ‘Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng niềm vui của Thiên Chúa ngươi’” (Thánh Bernadine ở Siena viết về Thánh Giuse).

 

Ngày 20 Tháng 3

Thánh Salvator ở Horta
(1520 -1567)

Sự nổi tiếng về thánh thiện cũng có một vài bất lợi. Ðược công chúng nhận biết đôi khi cũng phiền toán — như các đồng nghiệp của Thánh Salvator nhận thấy.

Thánh Salvator sinh trong thời kỳ vàng son của Tây Ban Nha với sự hưng thịnh của nghệ thuật, chính trị, giầu sang cũng như tôn giáo. Chính trong thời kỳ này, Thánh Y Nhã đã sáng lập Dòng Tên năm 1540.

Cha mẹ của Salvator thì nghèo. Khi 21 tuổi, ngài gia nhập dòng Phanxicô với tính cách thầy trợ sĩ, và sau đó không lâu ngài nổi tiếng về sự khắc khổ, khiêm tốn và nếp sống đơn sơ.

Làm người nấu bếp, người giữ cửa và sau này là người đi ăn xin chính thức cho các anh em hèn mọn ở Tortosa, ngài nổi tiếng về lòng bác ái. Ngài chữa lành người bệnh với Dấu Thánh Giá. Khi đám đông dân chúng đổ về nhà dòng để gặp Thầy Salvator, cha bề trên phải di chuyển thầy sang Horta. Nhưng ở đây, nhà dòng cũng không tránh khỏi đám người đông đảo đến xin thầy bầu chữa; họ ước lượng rằng hàng tuần có đến hai ngàn người đến gặp Thầy Salvator. Ngài bảo họ hãy kiểm điểm lại lương tâm, đi xưng tội và rước Mình Thánh Chúa cho xứng đáng. Thầy từ chối không cầu nguyện cho những ai không chịu lãnh nhận các bí tích.

Ðám đông không ngừng bị thu hút đến với Thầy Salvator. Ðôi khi họ còn xé y phục của thầy để lưu trữ như một báu vật. Hai năm trước khi từ trần, thầy lại bị di chuyển một lần nữa, lần này đến thành phố Cagliari trên đảo Sardinia. Thầy từ trần ở đây sau khi thốt lên, “Lạy Chúa, con phó linh hồn con trong tay Chúa.

Thầy được phong thánh năm 1938.

Lời Bàn

Hiện nay y khoa đã nhìn thấy sự tương quan rõ ràng giữa một vài chứng bệnh và đời sống tình cảm cũng như tinh thần của bệnh nhân. Trong cuốn Healing Life’s Hurts (Chữa Lành Những Ðau Khổ của Ðời Sống), ông Matthew và Dennis Linn cho biết, nhiều khi người ta chỉ được lành bệnh sau khi thực sự tha thứ cho người khác. Thánh Salvator cũng chữa lành theo phương cách này, và nhiều người đã được khỏi. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi chứng bệnh đều có thể chữa trị theo cách ấy; sự trợ giúp của y học là điều không thể bỏ qua. Nhưng chúng ta nên để ý rằng Thánh Salvator thường khuyên người bệnh hãy tái lập những ưu tiên của đời sống trước khi cầu xin được chữa lành.

Lời Trích

Sau đó Ðức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, ban cho họ có quyền trên các thần ô uế, để trừ diệt chúng, và chữa lành mọi bệnh tật” (Mt 10:1)

 

Ngày 21 Tháng 3

Chân Phước Gioan ở Parma
(1209 – 1289)

Là bề trên cả thứ bảy của Dòng Phanxicô, Chân Phước Gioan nổi tiếng về những cố gắng nhằm khôi phục linh đạo nguyên thủy của Dòng sau khi Thánh Phanxicô Assisi từ trần.

Gioan Buralli sinh ở Parma, nước Ý năm 1209. Khi là giáo sư triết mới hai mươi lăm tuổi, và nổi tiếng đạo đức thì Thiên Chúa đã gọi ngài từ giã thế tục để đi vào thế giới mới của Dòng Phanxicô. Ngài được gửi sang Balê để học thần học. Sau khi thụ phong linh mục, ngài được bổ nhiệm dạy thần học tại Bologna, Naples và Rôma.

Năm 1245, Ðức Giáo Hoàng Innocent IV triệu tập công đồng ở Lyons, nước Pháp. Vị bề trên Dòng Phanxicô lúc bấy giờ là Cha Crescentius đang đau nặng nên không thể tham dự. Ngài gửi Cha Gioan đi thế, và cha đã tạo được một ấn tượng tốt đẹp nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội trong công đồng. Hai năm sau, chính vị giáo hoàng ấy đã chủ tọa buổi bầu cử vị bề trên của Dòng Phanxicô, ngài đã nhớ đến Cha Gioan và đã đề cử cha như người xứng đáng nhất nắm giữ chức vụ quan trọng này.

Do đó, năm 1247, Cha Gioan ở Parma được bầu làm bề trên tổng quyền. Các môn đệ chân chính của Thánh Phanxicô vui mừng với sự chọn lựa này, và họ trông đợi sự hồi phục tinh thần khó nghèo và khiêm tốn như những ngày tiên khởi của Dòng. Và họ đã không thất vọng. Theo tài liệu ghi lại, ngài là người cương quyết và cường tráng, do đó ngài luôn nhân từ và vui vẻ dù có mệt mỏi cách mấy. Ngài là Bề Trên đầu tiên đi thăm tất cả các chi nhánh của Dòng, và đi chân đất. Ngài khiêm tốn đến độ mỗi khi đến thăm tu viện nào, ngài đều phụ giúp các thầy rửa rau và chuẩn bị cơm nước. Ngài yêu quý sự thinh lặng để có thể nghĩ đến Thiên Chúa và không bao giờ nói chuyện tầm phào.

Ðức giáo hoàng đã nhờ Cha Gioan làm đại diện đến Constantinople, là nơi ngài hầu như hoàn toàn thành công trong việc đưa người Hy Lạp ly khai trở về với Giáo Hội. Sau đó ngài tiếp tục công việc khôi phục linh đạo nguyên thủy của Dòng. Nhiều biện pháp đã được thi hành để giúp các tu sĩ tuân giữ kỷ luật, nhưng dù có nỗ lực đến đâu, ngài luôn luôn bị chống đối một cách cay đắng. Sau cùng, vì tin rằng mình không có khả năng để thực hiện sự cải tổ cần thiết, ngài đã từ chức và đề cử Cha Bonaventura (sau này là thánh) lên kế vị. Phần Cha Gioan, ngài lui về đời sống ẩn dật ở Greccio.

Nhiều năm sau đó, Cha Gioan nghe biết những người Hy Lạp, đã từng hòa giải với Giáo Hội lúc trước, bây giờ lại đi theo ly giáo. Mặc dù đã 80 tuổi, Cha Gioan được phép của Ðức Giáo Hoàng Nicôla IV trở lại Ðông Phương trong nỗ lực khôi phục sự hiệp nhất một lần nữa. Trên đường đi, ngài đã ngã bệnh và từ trần ngày 19 tháng Ba 1289. Nhiều phép lạ được ghi nhận do sự cầu bầu của ngài.

Cha Gioan được phong chân phước năm 1781.

 

Ngày 22 Tháng 3

Thánh Benvenutus ở Osimo
(c. 1282)

Thánh Benvenutus xuất phát từ dòng họ Scotivoli nổi tiếng ở Ancona, Ý Ðại Lợi. Sau khi học thần học và luật tại Ðại Học Bologna, ngài được thụ phong linh mục và được trở về Ancona để phụ giúp việc điều hành giáo phận.

Sau đó, ngài được bổ nhiệm làm giám quản Giáo Phận Osimo. Thành phố này từng trống ngôi giám mục trong 20 năm vì bị trừng phạt về tội ủng hộ Hoàng Ðế Frederick II trong cuộc chiến chống với đức giáo hoàng. Cha Benvenutus thành công trong việc thuyết phục dân chúng Osimo trở về tuân phục đức giáo hoàng. Năm 1264, đức giáo hoàng đặt Cha Benvenutus làm Giám Mục Osimo, nhưng cho phép ngài nhận áo dòng Phanxicô trước khi nhận nhiệm vụ mới.

Khi là giám mục, Ðức Benvenutus vẫn mặc y phục của Dòng và tuân giữ quy luật Thánh Phanxicô một cách nghiêm nhặt. Ngài thúc giục sự cải tổ trong giáo phận bằng cách triệu tập các công đồng và thiết lập các quy tắc thật khôn ngoan để chống với những lạm dụng thời bấy giờ. Nói tóm lại, Ðức Benvenutus đã đưa mọi người trong giáo phận về gần với Thiên Chúa hơn.

Năm 1282, ngài từ trần trong thánh đường của ngài giữa các linh mục giáo phận. Ba năm sau, ngài được Ðức Giáo Hoàng Martin IV tôn phong hiển thánh.

Lời Bàn

Dân chúng đủ mọi thành phần xã hội đã noi gương Thánh Phanxicô đi theo Ðức Kitô. Trong khi hầu hết các giám mục Phanxicô đều phục vụ trong công tác truyền giáo, nhưng cũng có nhiều vị như Thánh Benvenutus. Ðịa vị lãnh đạo của các ngài giúp họ ý thức rằng đời sống khiêm tốn và khó nghèo là dấu chỉ của Giáo Hội Ðức Kitô.

 
Ngày 23 Tháng 3

Thánh Turibius ở Mogrovejo
(1538 – 1606)

Cùng với Thánh Rosa ở Lima, Thánh Turibius là vị thánh đầu tiên nổi tiếng ở Tân Thế Giới, phục vụ Thiên Chúa ở Peru, Nam Mỹ trong 26 năm.

Sinh ở Tây Ban Nha và theo học về luật, ngài trở thành một học giả sáng giá đến nỗi được làm giáo sư luật cho Ðại Học Salamanca, và sau đó trở thành chánh án Toà Thẩm Tra ở Granada dưới thời Vua Philip II. Ngài rất thành công, nhưng vẫn chưa phải là một luật sư có thể ngăn cản được những biến cố đột ngột xảy ra trong đời.

Khi toà giám mục Lima trong thuộc địa Peru của Tây Ban Nha trống ngôi, nhà vua quyết định Turibius phải là người giữ chức vụ đó: vì ngài cương quyết và có tinh thần đạo đức. Sau khi được thụ phong linh mục và tấn phong giám mục, ngài được gửi sang Peru năm 1581, là nơi ngài chứng kiến sự tồi tệ của chủ nghĩa thực dân. Ở đây, người Tây Ban Nha xâm lăng vi phạm đủ mọi loại tội lỗi đối với người địa phương. Các lạm dụng của hàng giáo sĩ cũng thật lộ liễu, và Ðức Turibius đã dồn mọi nỗ lực để cải tổ lãnh vực này trước hết.

Ngài bắt đầu các cuộc thăm viếng lâu dài và gian khổ đến tất cả các giáo xứ trong tổng giáo phận mênh mông. Ngài học tiếng địa phương, và trong các chuyến công tác, có khi phải ở đó đến hai ba ngày mà thường không có thực phẩm cũng như giường chiếu. Mỗi sáng ngài đều xưng tội với cha tuyên uý, và cử hành Thánh Lễ với sự sốt sắng tột độ. Trong những người được Thêm Sức từ tay ngài là Thánh Rosa ở Lima, và có lẽ cả Thánh Martin de Porres nữa.

Ngài giúp thiết lập các trường học, nhà thờ, và mở cửa chủng viện đầu tiên trong Tân Thế Giới. Ðể sinh hoạt mục vụ với những người thổ dân, ngài còn sành sõi một vài tiếng địa phương.

Ngài được phong thánh năm 1726.

Lời Bàn

Quả thật Thiên Chúa đã uốn thẳng các đường lối quanh co. Trái với ý định của Turibius, và lại phát xuất từ điểm không ai ngờ là Toà Thẩm Tra, con người này đã trở nên vị chủ chăn giống như Ðức Kitô của các người nghèo và người bị áp bức. Thiên Chúa đã ban cho ngài ơn biết yêu thương tha nhân như điều họ mong đợi.

 

Ngày 24 Tháng 3

Thánh Catarina ở Genoa
(1447 – 1510)

 Khi Thánh Catarina chào đời thì nhiều nhà quý tộc ở Ý lúc bấy giờ hỗ trợ các văn nghệ sĩ thuộc phong trào Phục Hưng. Các nhu cầu của người nghèo và người bệnh tật thường bị lu mờ bởi cái đói khát giầu sang và lạc thú.

Cha mẹ của Catarina thuộc dòng họ quý tộc ở Genoa. Lúc 13 tuổi, ngài muốn đi tu nhưng không được nhận vì còn quá trẻ. Năm 16 tuổi, bởi sự thúc giục của cha mẹ, Catarina kết hôn với ông Guiliano Adorno, một người quý tộc nhưng đó là một hôn nhân bất hạnh. Ông Guiliano là một người không có đức tin, cọc cằn, hoang phí và không chung thủy. Trong một thời gian, Catarina muốn quên đi những chán chường của đời sống bằng cách hòa đồng với xã hội.

Một ngày kia, khi đi xưng tội, ngài được ơn Chúa cho thấy tội lỗi của mình và tình thương của Thiên Chúa. Ngài thay đổi lối sống và làm gương cho chồng, mà không lâu sau đó, chính ông Giuliano cũng đã từ bỏ đời sống ích kỷ, hoang đàng. Cả hai quyết định sống trong khu nhà thương ở Genoa để chăm sóc bệnh nhân, thi hành đức bác ái. Sau khi ông Giuliano qua đời năm 1497, bà Catarina đứng trông coi bệnh viện.

Những thị kiến bà được cảm nghiệm từ khi hai mươi sáu tuổi cho đến lúc chết, được cha giải tội ghi nhận lại trong hai cuốn “Những Ðối Thoại của Linh Hồn và Thân Xác,” và “Luận Về Luyện Ngục“. Trong Luận Về Luyện Ngục, bà coi toàn thể cuộc đời Kitô Hữu là sự thanh luyện. Nếu sự thanh luyện ở đời này chưa hoàn tất thì sẽ phải tiếp tục sang đời sau. Những gì chúng ta phải đền bù vì tội lỗi của chúng ta ở đời này thì quá nhỏ so với những gì phải đền bù ở Luyện Tội. Ðời sống với Thiên Chúa ở thiên đàng là một tiếp nối của đời sống đã được hoàn thiện được khởi sự từ trần gian.

Kiệt quệ vì sự hy sinh, bà từ trần ngày 15 tháng Chín, 1510, và được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê XII phong thánh năm 1737.

Lời Bàn

Xưng tội và rước lễ thường xuyên có thể giúp chúng ta nhìn thấy con đường hướng về Thiên Chúa. Những người có cảm nhận thực tế về tội lỗi của mình và sự cao cả của Thiên Chúa thường là những người sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của tha nhân. Thánh Catarina bắt đầu công việc ở bệnh viện với lòng nhiệt thành, và trung thành với công việc ấy qua những thời kỳ khó khăn bởi vì ngài được khích động bởi tình yêu Thiên Chúa, và tình yêu ấy được canh tân qua Kinh Thánh và các bí tích.

Lời Trích

Trước khi từ giã cõi đời, Thánh Catarina nói với cô con gái đỡ đầu: “Tomasina! Ðức Giêsu trong tâm hồn con! Vĩnh cửu trong tâm trí con! Thánh ý Thiên Chúa trong hành động của con! Nhưng trên hết mọi sự, hãy sống bác ái, Thiên Chúa là tình yêu, hoàn toàn tình yêu!

 
Ngày 25 Tháng 3

Lễ Truyền Tin

 Lễ Truyền Tin có từ thế kỷ thứ tư hoặc thứ năm. Ý nghĩa chính của lễ là sự Nhập Thể: Thiên Chúa trở nên một người trong chúng ta. Tự đời đời Thiên Chúa đã quyết định để Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Giờ đây, như Thánh Luca 1:26-38 kể cho chúng ta biết, quyết định ấy được thể hiện. Thần-Nhân ấy đã ôm lấy toàn thể nhân loại, đúng hơn toàn thể tạo vật, để đưa đến Thiên Chúa trong một nghĩa cử bác ái cao cả. Vì loài người đã chối từ Thiên Chúa, Ðức Giêsu chấp nhận sự thống khổ và cái chết đau đớn: “Không ai có tình yêu cao quý hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (Gioan 15:13)

Ðức Maria có vai trò quan trọng trong hoạch định của Thiên Chúa. Từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã tiền định ngài làm mẹ của Ðức Giêsu và có liên hệ mật thiết với Người trong sự tạo dựng và cứu chuộc nhân loại. Chúng ta có thể nói quyết định tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa được tiếp nối trong quyết định Nhập Thể. Vì Ðức Maria là một công cụ của Thiên Chúa trong sự Nhập Thể, nên cùng với Ðức Giêsu ngài có một vai trò trong sự tạo dựng và cứu chuộc. Ðó là vai trò mà Thiên Chúa đã ban. Ðó là ơn sủng của Thiên Chúa từ khởi thủy cho đến tận cùng. Chính nhờ ơn Thiên Chúa mà Ðức Maria trở nên một nhân vật cao trọng.

Ngài là người mẹ-đồng-trinh đã hoàn tất lời tiên tri Isaiah 7:14 trong một phương cách mà tiên tri Isaiah không thể ngờ. Ngài được kết hợp với Con của ngài để thể hiện thánh ý Thiên Chúa (TV 40:8-9; Do Thái 10:7-9; Luca 1:38)

Cùng với Ðức Giêsu, Ðức Maria đầy ơn phúc là sợi dây liên kết giữa trời và đất. Sau Ðức Giêsu, ngài là một con người tuyệt hảo tiêu biểu cho mọi tiềm năng của loài người. Ngài đón nhận tình yêu vô cùng của Thiên Chúa vào sự hèn mọn của mình. Ngài chỉ cho chúng ta thấy phương cách mà một con người bình thường có thể phản ánh Thiên Chúa trong những hoàn cảnh bình thường của đời sống. Ngài là một gương mẫu mà Giáo Hội cũng như mọi phần tử của Giáo Hội phải noi theo. Ngài là sản phẩm đích thực của quyền năng tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa. Ngài biểu lộ những gì mà sự Nhập Thể phải hoàn tất cho tất cả mọi người chúng ta.

Lời Bàn

Ðôi khi các nhà văn của Giáo Hội bị kết án là đã nâng Ðức Maria lên bệ cao và như thế không khuyến khích loài người bắt chước ngài. Có lẽ nhận xét như vậy là lầm. Chính Thiên Chúa đã nâng Ðức Maria lên và Người đang đưa tất cả mọi người chúng ta lên. Ít khi chúng ta nhận ra sự cao trọng của ơn Chúa, sự kỳ diệu của tình yêu cho không của Người. Sự kỳ diệu của Ðức Maria — ngay cả giữa những bình thường của đời ngài — là lời Thiên Chúa thức tỉnh chúng ta về thân phận cao trọng của tạo vật mà tất cả chúng ta đều được hưởng trong hoạch định của Thiên Chúa.

Lời Trích

Ðược phong phú hoá với sự thánh thiện cực kỳ độc đáo ngay từ giây phút thụ thai đầu tiên, người trinh nữ Nagiarét được thiên sứ, theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, ca tụng là ‘đầy ơn phước’ (x. Luca 1:28). Trinh nữ đã trả lời thiên sứ ấy: ‘Này tôi là tôi tớ Chúa; xin hãy thể hiện nơi tôi những gì ngài nói’ (Luca 1:38). Do đó, người con gái của Adong, Ðức Maria, chấp nhận lời của Thiên Chúa, trở nên Mẹ Ðức Giêsu. Hoàn toàn phó thác cho ý định cứu chuộc của Thiên Chúa mà không tội lỗi nào có thể ngăn cản được, và như một nữ tì của Thiên Chúa, ngài đã tự hiến hoàn toàn cho con người và công trình của Con ngài, mà nhờ ơn sủng của Thiên Chúa Toàn Năng, ngài phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc với Ðức Giêsu và dưới quyền Người” (Hiến Chương về Giáo Hội, 56).

 
Ngày 26 Tháng 3

Chân Phước Didacus ở Cadiz
(c. 1801)

Sinh ở Cadiz, Tây Ban Nha, và tên rửa tội là Joseph Francis, người trẻ này thường hay lai vãng ở tu viện dòng Capuchin. Nhưng ao ước gia nhập Dòng Phanxicô của anh bị trì trệ vì anh gặp khó khăn trong việc học. Sau cùng, anh được nhận vào đệ tử viện dòng Capuchin ở Seville lấy tên là Thầy Didacus. Sau đó thầy được thụ phong linh mục và được sai đi rao giảng.

Không bao lâu người ta đã thấy Cha Didacus có tài giảng thuyết. Ngài di chuyển không biết mệt trên khắp lãnh thổ Andalusia của Tây Ban Nha và giảng thuyết ở các thành phố nhỏ cũng như lớn. Lời ngài giảng có sức đánh động đến tâm trí của mọi người, dù già hay trẻ, giầu hay nghèo, học sinh hay giáo sư. Và công việc giải tội của ngài là để hoàn tất sự hoán cải được khởi sự từ lời rao giảng.

Con người ít học này được gọi là “tông đồ của Ba Ngôi Cực Thánh” vì ngài rất sùng kính Thiên Chúa Ba Ngôi, và ngài giảng giải rất dễ dàng về mầu nhiệm siêu phàm này. Bí mật ấy một ngày kia được tiết lộ qua một em bé, khi em kêu lên: “Mẹ ơi mẹ. Mẹ coi có chim bồ câu đậu trên vai Cha Didacus kìa! Con cũng có thể giảng hay như thế nếu có chim bồ cầu chỉ cho con những gì phải nói.

Cha Didacus rất gần gũi với Thiên Chúa, ngài dành thời giờ hàng đêm để cầu nguyện và chuẩn bị bài giảng qua sự hãm mình khắc khổ. Ngài trả lời cho những ai chỉ trích ngài: “Tội lỗi của tôi và của dân chúng đã thúc giục tôi làm điều đó. Những ai có trách nhiệm hoán cải kẻ tội lỗi phải nhớ rằng, Thiên Chúa đã đặt trên vai họ tội lỗi của những người xưng tội.

Người ta nói rằng thỉnh thoảng, khi ngài giảng về tình yêu của Thiên Chúa, thân thể ngài như bay trên không. Ðám đông dân chúng trong các làng mạc, thành phố như mê hoặc bởi lời của ngài, và họ thường tìm cách xé một mẩu áo của ngài mỗi khi ngài đi ngang qua.

Ngài từ trần năm 1801 khi mới 58 tuổi. Là một người thánh thiện và đáng kính, ngài được phong chân phước năm 1894.

Ngày 26 Tháng 3

Thánh Magarét Clitherow

 Thánh nữ Magarét sinh ở MiÇleton, Anh Quốc, năm 1555, trong một gia đình theo Tin Lành. Ðược thừa hưởng vẻ đẹp, trí thông minh và tính tình vui vẻ, ngài là một người duyên dáng. Năm 1571, ngài kết hôn với ông Gioan Clitherow, hành nghề buôn bán trâu bò, và một vài năm sau ngài trở lại đạo Công Giáo

Là một tín đồ ngoan đạo, ngài thường lén lút giúp đỡ các linh mục Công Giáo mà thời bấy giờ đang bị nhà cầm quyền Anh Giáo bắt bờ Cũng vì vậy, chính ngài bị bắt và bị giam cầm.

Sau biết bao lần khuyến dụ từ bỏ Ðức Tin, nhưng người phụ nữ này vẫn cương quyết. Sau cùng, ngài bị kết án tử hình vào ngày 25 tháng Ba, 1586. Ngài bị trói giang chân tay nằm trên đất với một tảng đá sắc bén để ở sau lưng. Và khi một tấm ván chất đầy sức nặng đè xuống trên thân thể ngài thì chỉ trong vòng mười lăm phút, ngài đã tắt thở sau khi xương sống gẫy vụn.

Sự thánh thiện của người tôi tớ Thiên Chúa này được tỏ rõ khi nghe biết bị kết án tử hình, ngài nói với một người bạn: “Quan tòa nói tôi sẽ chết vào thứ Sáu tới; và tôi cảm thấy thân thể rã rời khi nghe tin ấy, nhưng thần khí tôi vui mừng xiết kể. Vì tình yêu Thiên Chúa, xin bạn hãy cầu nguyện cho tôi và xin mọi người thiện tâm cũng cầu nguyện cho tôi.

 

Ngày 27 Tháng 3

Chân Phước Phanxicô “di Bruno”
(1825 – 1888)

 Phanxicô sinh ở miền bắc nước Ý, là người con út trong gia đình quý tộc có 12 người con. Ngài sống trong giai đoạn cực kỳ hỗn loạn của lịch sử, mà phong trào chống Công Giáo và chống đức giáo hoàng rất mạnh mẽ.

Sau khi hoàn tất khoá huấn luyện sĩ quan quân đội, Phanxicô được Vua Victor Emmanuel II để ý, vì ông cảm kích trước sự hiểu biết và tính tình của người thanh niên này. Ðược vua mời để làm thày giáo cho hai hoàng tử, Phanxicô đồng ý và chuẩn bị nhận nhiệm vụ. Nhưng vai trò của Giáo Hội trong lãnh vực giáo dục thời bấy giờ có nhiều điểm bất lợi, nên nhà vua buộc phải rút lại lời mời Phanxicô, thay vào đó, vua tìm một thày giáo thích hợp hơn với một quốc gia thế tục.

Sau đó không lâu, Phanxicô từ giã quân đội và theo đuổi việc học ở Balê về toán học và thiên văn học; ngài cũng đặc biệt chú ý đến tôn giáo và sự khổ hạnh. Mặc dù việc học là chính, Phanxicô dồn nhiều nỗ lực trong các sinh hoạt bác ái. Ngài sáng lập tu hội Thánh Zita cho những người đầy tớ, sau này bành trướng thêm để nhận cả các người mẹ không chồng. Ngài giúp thiết lập các ký túc xá cho người già và người nghèo. Ngài trông coi cả việc xây cất một nhà thờ ở Turin được dành để tưởng nhớ các chiến sĩ đã tử trận trong cuộc chiến thống nhất nước Ý.

Vì muốn nới rộng tầm hoạt động và tận tụy hơn cho người nghèo, Phanxicô, lúc bấy giờ là một tráng niên, bắt đầu đi tu làm linh mục. Nhưng đầu tiên, ngài phải được sự đồng ý của Ðức Giáo Hoàng Piô IX để chống lại quyết định của đức tổng giám mục địa phương đã không đồng ý cho ngài đi tu vì cao tuổi.

Khi 51 tuổi, Phanxicô được thụ phong linh mục. Ngài tiếp tục các công việc tốt lành, chia sẻ tài sản cũng như năng lực của ngài cho tha nhân. Ngài thiết lập một ký túc xá khác, lần này dành cho các cô gái điếm hoàn lương.

Ngài từ trần ở Turin ngày 27 tháng Ba 1888, và 100 năm sau, ngài được phong chân phước.

 

Ngày 28 Tháng 3

Thánh Tutilo
(c. 915)

Tutilo sinh vào cuối thế kỷ thứ chín và đầu thế kỷ thứ mười. Ngài theo học ở đan viện Biển Ðức Thánh Gall. Hai người bạn học của ngài được phong “chân phước.” Cả ba người sau này đều trở thành đan sĩ tại đan viện nơi họ theo học.

Thánh Tutilo là một người có nhiều tài. Ngài là một nhà thơ, một họa sĩ vẽ chân dung, một điêu khắc gia, một nhà giảng thuyết và nhà kiến trúc. Ngài còn là một chuyên viên cơ khí.

Tài năng trổi vượt nhất của ngài là âm nhạc. Ngài có thể sử dụng mọi nhạc khí của các đan sĩ để dùng trong phụng vụ. Cùng với người bạn là Chân Phước Notker, ngài sáng tác các giai điệu thánh vịnh đáp ca. Cho đến nay, chúng ta chỉ còn giữ được ba bài thơ và một bài thánh ca trong biết bao nhiêu sáng tác của ngài. Nhưng các bức họa và điêu khắc của ngài vẫn còn thấy rải rác trong các thành phố ở Âu Châu.

Nhưng Tutilo là thánh không chỉ vì các tài năng của ngài. Ngài là một người rất khiêm tốn, chỉ muốn sống cho Chúa. Ngài ca tụng Thiên Chúa với những gì ngài biết: qua hội họa, điêu khắc và âm nhạc. Tutilo được tuyên xưng là thánh vì ngài đã dùng cả cuộc đời để ca ngợi và yêu mến Thiên Chúa.

Thánh Tutilo từ trần năm 915.

Lời Bàn

Dù chúng ta có nhiều hay ít tài năng, dù chúng ta có thông minh hay không, điều quan trọng là tận tụy thi hành công việc của mình. Ðó là phương cách nói lên tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa.

 

Ngày 29 Tháng 3

Chân Phước Ludovico ở Casoria
(1814-1885)

 Sinh ở Casoria (gần Naples), Arcangelo Palmentieri là thợ đóng bàn ghế trước khi gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn năm 1832, và lấy tên là Ludovico. Năm năm sau đó ngài được chịu chức, và dạy hóa học, vật lý và toán cho các đệ tử trong tỉnh dòng.

Vào năm 1847, ngài được một cảm nghiệm huyền nhiệm mà sau này ngài diễn tả cảm nghiệm ấy như một sự thanh tẩy. Sau đó ngài dùng cả cuộc đời để phục vụ người nghèo và người đau yếu, thành lập một nhà phát chẩn cho người nghèo, hai trường học cho các trẻ em Phi Châu, một học viện cho các em nhà giầu, một trung tâm cho các em mồ côi, các em câm điếc, và các trung tâm khác cho người mù và người già. Ngoài một bệnh xá dành cho các tu sĩ dòng, ngài còn thành lập các trung tâm bác ái khác ở Naples, Florence và Assisi. Có lần ngài nói, “Tình yêu Ðức Kitô đã làm thương tích tâm hồn tôi.” Tình yêu này đã thúc giục ngài thi hành nhiều công việc bác ái cao cả.

Ðể tiếp tục công việc bác ái, năm 1859 ngài thành lập tổ chức Các Thầy Áo Xám, là một tổ chức tôn giáo gồm những người trước đây thuộc về dòng Ba Phanxicô. Ba năm sau, ngài thành lập tổ chức Các Chị Áo Xám của Thánh Êligiabét, cũng cùng một mục đích ấy.

Trong những năm cuối đời, ngài bị đau yếu đến chín năm, và đã viết một chứng từ linh đạo mà trong đó ngài diễn tả đức tin như “ánh sáng trong tăm tối, sự trợ giúp khi đau yếu, một ân huệ khi khổ cực, nơi cực lạc khi bị đóng đinh và sự sống giữa cái chết.” Sau khi ngài từ trần được năm tháng thì việc điều tra phong thánh đã được tiến hành. Ngài được phong chân phước năm 1993.

Lời Bàn

Những người thánh thiện không được Chúa che chở khỏi những đau khổ, nhưng Chúa đã giúp họ biết triển nở tình yêu từ sự đau khổ ấy. Khi đối diện với sự đau khổ của người khác, chúng ta có hai thái độ, hoặc hờ hững hoặc yêu quý giúp đỡ họ. Các thánh là những người chỉ cho chúng ta con đường tiến đến sự yêu quý giúp đỡ.

Lời Trích

Chứng từ linh đạo của Chân Phước Ludovico bắt đầu như sau: “Chúa đã gọi tôi đến với Ngài bằng một tình yêu thật dịu dàng, và với sự bác ái vô bờ Ngài đã hướng dẫn và chỉ bảo tôi trên đường đời.

*******************************************************************

Ngày 29 Tháng 3

Thánh Jonas và Thánh Barachisius

 Vua Sapor của Ba Tư lên ngôi cai trị trong thế kỷ thứ tư. Ông rất ghét Kitô Hữu và bách hại họ một cách dã man. Ông thiêu hủy các nhà thờ và đan viện. Hai anh em tên Jonas và Barachisius nghe biết về sự bách hại này. Hai người cũng biết là nhiều Kitô Hữu đã bị chết.

Hai anh em tìm cách giúp đỡ các Kitô Hữu và khuyến khích họ trung thành với Ðức Kitô. Jonas và Barachisius biết rằng, chính họ cũng có thể bị bắt. Nhưng sự lo sợ đó không làm họ chùn bước. Tâm hồn hai người tràn ngập tình yêu thương tha nhân nên không còn nghĩ đến chính mình.

Sau cùng, hai anh em bị cầm tù. Họ được bảo rằng, nếu họ không thờ lạy mặt trời, mặt trăng, nước và lửa, thì họ sẽ bị tra tấn và bị giết chết. Ðương nhiên, họ từ chối thờ phượng bất cứ sự vật gì và bất cứ ai ngoại trừ một Thiên Chúa chân thật. Họ chịu đau khổ ghê gớm nhưng vẫn kiên gan cầu nguyện. Họ luôn nghĩ về sự thống khổ của Ðức Kitô. Cả hai bị tra tấn cách khủng khiếp nhưng vẫn không chối bỏ đức tin. Sau cùng, họ bị tử hình và đã vui vẻ dâng hiến mạng sống cho Thiên Chúa.

Cả hai tử đạo vào năm 327.

 

Ngày 30 Tháng 03

Thánh Phêrô Regalado (1390-1456)

Trong thời của Thánh Phêrô Regalado, lúc ấy thế giới thật nhộn nhịp. Cuộc Ðại Ly Giáo Tây Phương (1378-1417) được giải quyết trong Công Ðồng Constance (1414-1418). Nước Pháp và nước Anh đang đánh nhau trong Cuộc Chiến 100 Năm, và năm 1453 Ðế Quốc Byzantine hoàn toàn bị xoá sạch bởi sự bại trận của Constantinople trước sự tấn công của người Thổ Nhĩ Kỳ. Khi Thánh Phêrô từ trần, lúc ấy ngành in mới bắt đầu ở Ðức, và Columbus khám phá ra Tân Thế Giới chưa đầy 40 năm sau.

Thánh Phêrô sinh trong một gia đình giầu có và đạo đức ở Vallodolid, Tây Ban Nha. Vào năm 13 tuổi, người được phép gia nhập dòng Phanxicô. Sau khi chịu chức ít lâu, người được bầu làm bề trên tu viện ở Aguilar. Người lãnh đạo một tổ chức các tu sĩ dòng muốn sống cuộc đời thật khó nghèo và ăn năn đền tội cách liên lỉ. Vào năm 1442, người được chọn làm thủ lãnh của các tu sĩ Phanxicô Tây Ban Nha trong nhóm.

Thánh Phêrô hướng dẫn các tu sĩ qua đời sống gương mẫu của người. Ðặc điểm của người là yêu quý người nghèo cũng như người đau yếu. Nhiều câu chuyện phép lạ được người ta kể lại về lòng bác ái của người đối với người nghèo. Tỉ như, thực phẩm dường như không bao giờ vơi khi người phân phát cho người nghèo. Trong suốt cuộc đời, Thánh Phêrô luôn luôn ăn chay, người chỉ dùng bánh mì và nước lã.

Ngay sau khi người từ trần vào ngày 31 tháng Ba, 1456, ngôi mộ người đã trở nên trung tâm hành hương. Người được tuyên thánh năm 1746.

Lời Bàn

Thánh Phêrô là nhà lãnh đạo giỏi vì người không bao giờ giận dữ khi thấy các tu sĩ phạm lỗi. Người giúp các tu sĩ sắp đặt lại những thứ tự của đời sống, và tận tụy sống phúc âm của Ðức Giêsu Kitô mà họ đã thề hứa. Việc kiên nhẫn sửa đổi là một hành vi bác ái mà mọi tu sĩ Phanxicô phải tuân theo, chứ không chỉ ràng buộc các bề trên.

Lời Trích

“Ðừng để các tu sĩ bị náo động hay bị tức giận trước sự lầm lỗi hay sự dữ của người khác, vì ma quỷ muốn hủy hoại nhiều người qua lỗi lầm của một người; nhưng họ phải tận tình giúp đỡ tinh thần những ai sa ngã, vì người lành mạnh thì không cần đến thầy thuốc mà là người đau yếu (x. Mt. 9:12; Mk. 2:17)” (Quy Luật 1221, Chương 5).

 
Ngày 31 Tháng 3

    Thánh Benjamin
(c. 424)

     Kitô Hữu ở Ba Tư vui hưởng thái bình trong 12 năm dưới sự cai trị của Isdegerd, con vua Sapor III, thì vào năm 420 quốc gia này bị khuấy động bởi sự hăng hái thiếu khôn ngoan của Abdas, vị giám mục Công Giáo đã đốt Ðền Thần Lửa, một đền thờ của người Ba Tư. Vua Isdegerd đe dọa sẽ thiêu hủy tất cả các nhà thờ Công Giáo, nếu đức giám mục không xây lại đền thờ ấy.

    Khi Ðgm Abdas từ chối tuân hành, lời đe dọa đã trở thành sự thật; các nhà thờ trên toàn quốc bị thiêu hủy, chính Ðgm Abdas thì bị tử hình, và một cuộc bách hại toàn diện kéo dài đến bốn mươi năm. Vua Isdegerd từ trần năm 421, nhưng thái tử kế vị là Varanes, tiếp tục bách hại Kitô Hữu một cách dữ dội hơn. Các Kitô Hữu bị tra tấn thật dã man.

    Trong những người chịu đau khổ là Benjamin, một phó tế, bị kết án tù một năm trời vì Ðức Tin. Vào cuối thời hạn tù, một đại sứ của Hoàng Ðế Constantinople đã xin cho Benjamin được trả tự do, với điều kiện là ngài không được rao giảng đức tin cho các cận thần trong triều đình.

    Tuy nhiên, Benjamin tuyên bố rằng, rao giảng về Ðức Kitô là một nhiệm vụ mà ngài không thể im lặng. Mặc dù ngài đã đồng ý với vị đại sứ và nhà cầm quyền Ba Tư, nhưng ngài không thể tuân lệnh mà bỏ lỡ cơ hội rao giảng Tin Mừng. Một lần nữa ngài lại bị bắt và đưa ra trước nhà vua. Bạo chúa này ra lệnh lấy tre vót nhọn đóng vào các móng tay và thân thể ngài, sau đó lại rút tre ra để máu đổ. Sau khi cực hình này được thi hành vài lần, một cái cọc có nhiều đốt được đóng vào hậu môn để xé nát thân thể ngài. Vị tử đạo đã tắt thở trong sự đau đớn khủng khiếp này vào năm 424.

____________________________________________________________________
  

Ngày 31 Tháng 3

    Chân Phước Joan ở Toulouse

     Vào năm 1240, một số tu sĩ dòng Carmel từ Palestine đến khởi sự một đan viện ở Toulouse, nước Pháp. Hai mươi lăm năm sau, vị linh mục nổi tiếng của dòng Carmel là Thánh Simon Stock đi ngang qua Toulouse. Một phụ nữ đạo đức đến xin gặp thánh nhân. Bà tự giới thiệu là Joan, và thành khẩn xin thánh nhân, “Có thể nào con trở nên một trợ sĩ của dòng Carmel không?” Thánh Simon Stock lúc ấy là bề trên dòng. Ngài có quyền cho phép và đã chấp thuận thỉnh cầu của bà Joan. Và bà đã trở thành người nữ trợ sĩ đầu tiên. Bà được mặc áo dòng, và dưới sự chứng kiến của Thánh Simon Stock, bà đã khấn khiết tịnh trọn đời.

    Bà Joan tiếp tục một đời sống âm thầm và đơn giản ngay tại nhà của mình. Bà cố gắng trung thành với các quy luật của dòng. Bà tham dự Thánh Lễ hàng ngày và hoạt động tông đồ ở nhà thờ dòng Carmel. Công việc hàng ngày của bà là đi thăm người nghèo, người bệnh và người cô đơn. Bà huấn luyện các chú giúp lễ. Bà giúp đỡ người già yếu qua những công việc vặt hàng ngày. Bà cầu nguyện với họ và an ủi tinh thần họ.

    Chân Phước Joan thường mang trong mình một tấm ảnh Chúa Giêsu chịu nạn. Ðó là cuốn “sách” của bà. Thỉnh thoảng, bà hay đem tấm hình ra để chiêm ngắm. Người ta nói rằng, mỗi lần bà nhìn ngắm ảnh Chúa Giêsu, bà đều có những tư tưởng thật hay để chia sẻ.

    Khi bà từ trần, bà được chôn trong nhà thờ dòng Carmel ở địa phương. Vì khi còn sống, bà là một phần tử tích cực của giáo xứ.

Trích từ ThánhLinh.net

Chúa Nhật III MC-Năm B

Lời Chúa

03/03/2024
Chúa Nhật Tuần III Mùa Chay Năm B

 

Bài Ðọc I: Xh 20, 1-17

“Luật do Môsê đã ban ra”.

Trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, Chúa phán bảo những lời sau đây: Ta là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã dẫn dắt ngươi ra khỏi vùng Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Ngươi không được thờ thần nào khác trước mặt Ta, đừng chạm trổ tượng gỗ, hay vẽ hình các vật trên trời, dưới đất, trong nước, dưới lòng đất. Ðừng thờ lạy và phụng sự các hình tượng ấy, vì Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi, Chúa hùng mạnh, Chúa ganh tị, trừng phạt con vì tội lỗi cha, cho đến ba bốn đời, những kẻ ghét Ta; Ta tỏ lòng nhân lành đến ngàn đời đối với những ai kính mến Ta và tuân giữ các giới răn Ta.

Ngươi đừng lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi, mà lường gạt, vì Chúa không thể không trừng phạt kẻ nào lấy danh Người mà lường gạt.

Ngươi hãy nhớ thánh hoá ngày Sabbat. Ngươi làm lụng và làm tất cả mọi việc trong sáu ngày, còn ngày thứ bảy là ngày Sabbat, thì thuộc về Chúa, Thiên Chúa ngươi; trong ngày đó, ngươi, con trai, con gái, tôi tớ nam nữ, súc vật, ngoại kiều trọ trong nhà ngươi, tất cả không được làm việc gì. Vì trong sáu ngày, Chúa đã tạo dựng trời, đất, biển, và tất cả mọi vật trong đó, rồi Người nghỉ trong ngày thứ bảy: cho nên Chúa chúc phúc và thánh hoá ngày Sabbat.

Ngươi hãy tôn kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu dài trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi. Ngươi chớ giết người, chớ phạm tội ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối hại anh em mình, chớ tham lam nhà của kẻ khác, chớ ham muốn vợ bạn hữu, tôi tớ nam nữ, bò lừa và bất cứ vật gì của bạn hữu.

Ðó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài vắn này: Xh 20, 1-3. 7-8. 12-17

Luật do Môsê đã ban ra”.

Trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, Chúa phán bảo những lời sau đây: Ta là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã dẫn dắt ngươi ra khỏi vùng Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Ngươi không được thờ thần nào khác trước mặt Ta. Ngươi đừng lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi, mà lường gạt, vì Chúa không thể không trừng phạt kẻ nào lấy danh Người mà lường gạt. Ngươi hãy nhớ thánh hoá ngày Sabbat.

Ngươi hãy tôn kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu dài trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi. Ngươi chớ giết người; chớ phạm tội ngoại tình; chớ trộm cắp; chớ làm chứng dối hại anh em mình; chớ tham lam nhà của kẻ khác; chớ ham muốn vợ bạn hữu, tôi tớ nam nữ, bò lừa và bất cứ vật gì của bạn hữu.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 11

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời (Ga 6, 69).

1. Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.

2. Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt.

3. Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực, công minh hết thảy.

4. Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng, ngọt hơn mật và hơn cả mật tàng ong.

Bài Ðọc II: 1 Cr 1, 22-25

Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho nhiều người, nhưng là sự khôn ngoan của Thiên Chúa đối với những người được gọi”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, các người Do-thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo, nhưng đối với những người được gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, thì Ngài là Ðức Kitô, quyền năng của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Chúa Cha, vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và điều yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự mạnh mẽ của loài người.

Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4, 4b

Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

Phúc Âm: Ga 2, 13-25

Các ngươi cứ phá huỷ đền thờ này, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêru-salem. Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi”.

Bầy giờ người Do-thái bảo Người rằng: “Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy”. Chúa Giêsu trả lời: “Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”. Người Do-thái đáp lại: “Phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?” Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.

Trong thời gian Người ở lại Giêrusalem mừng lễ Vượt qua, nhiều kẻ tin danh Người, vì mục kích những phép lạ Người làm. Nhưng chính Chúa Giêsu không tin tưởng họ, vì Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong lòng người ta.

Ðó là lời Chúa.



Suy Niệm Lời Chúa

03/03/2024

CHÚA NHẬT TUẦN 3 MC – B
Ga 2,13-25

BẢO VỆ SỰ LINH THÁNH

“Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” (Ga 2,16)

Suy niệm: Trong những năm gần đây, báo chí thường chạy những bài phóng sự về cảnh tượng xô bồ nơi các đền chùa trong những dịp lễ hội đầu năm: nào là chen lấn xô đẩy để lĩnh ấn đền Trần, nào là buôn bán chặt chém khách hành hương Chùa Hương, nào là hỗn loạn xin lộc đền bà Chúa Kho. Dễ thấy rằng chính não trạng vụ lợi muốn biến thần thánh thành công cụ phục vụ lòng ham muốn của mình đã mở đường cho việc thương mại hoá những giá trị cao quý linh thiêng của văn hoá và tín ngưỡng. Cũng với não trạng ấy, người Do Thái đã biến sân đền thờ, nơi thánh thiêng để thờ phượng Thiên Chúa, trở thành một cái chợ để buôn bán. Là Con Thiên Chúa và là Đấng Thánh, Chúa Giêsu không chấp nhận để đền thờ, “nhà của Cha Ngài,” bị tục hoá. “Hiền lành và khiêm nhường” như Ngài mà cũng phải nổi giận, dùng roi xua đuổi những người buôn bán nơi đền thờ như thế thì đủ hiểu những gì thuộc về Thiên Chúa là linh thánh và bất khả xâm phạm.

Mời Bạn: Nhà thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa. Đến đó, bạn mặc y phục chỉnh tề, cử chỉ tác phong trang nghiêm cung kính, đó là điều chính đáng. Nhưng xin bạn cũng lưu ý đến những đền thờ khác của Thiên Chúa; đó là bàn thờ Chúa trong gia đình bạn; đó là đền thờ Chúa Thánh Thần nơi tâm hồn bạn cũng như nơi anh chị em của bạn. Bạn đã giữ gìn sự linh thánh và tôn nghiêm nơi những đền thờ đó chưa? Bạn đã coi đó là nơi cầu nguyện, nơi bạn gặp gỡ Thiên Chúa chưa?

Sống Lời Chúa: Dù bận rộn, bạn quyết tâm dành thời giờ, dù ít dù nhiều, để cầu nguyện với Chúa mỗi ngày.

Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha.

Thánh Lễ Minh Niên năm Giáp Thìn 2024

Trong bầu khí linh thiêng của đất trời chào đón Xuân Giáp Thìn 2024,  cộng đoàn giáo xứ St Boniface tại Anaheim đã long trọng cử hành Thánh lễ Minh niên, nhằm dâng lên Thiên Chúa lời tạ ơn qua những bài Thánh Ca chứa đựng lời cầu nguyện cao cả cho cá nhân, gia đình, giáo xứ, giáo hội và toàn thế giới.

 

Những bài hát Thánh Ca, những lời chúc tụng và ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa cùng lòng nguời rôn ràng trong bài giảng, lời nguyện cầu của cộng đoàn giáo dân.  Nguời nguời hớn hở tay cầm những bao lì xì, chúc Tết nhau và không quên …đốt những tràng pháo thật dài vang nổ đinh tai nhức óc sau Thánh Lễ  bên sân nhà thờ tối nay.

Cộng đoàn dân Chúa hôm nay thật vui đón mừng ngày đầu Xuân của Năm Giáp Thìn.

 

✝️ Chủ Tich cđ Anaheim St Boniface trong lời chúc Tết:
…Trong niềm vui hân hoan đầu năm Giáp Thìn 2024, chúc Cha QN, Thầy Sáu và Sơ luôn được Chúa gìn giữ, đồng hành trong đời sống phục Chúa và tha nhân, đặc biệt là luôn có nhiều sức khoẻ để chu toàn trách nhiệm coi sóc, phục vục Cộng Đoàn.
Xin chúc qúy cụ hưởng thọ, gia đình con cháu sum vầy.
Chúc Qúy vị phụ huynh, qúy anh chị khỏe mạnh, thành công trong cuộc sống.
Chúc các em nhỏ, con cháu trong cộng đoàn học giỏi, thăng tiến trên con đường học vấn.
Đặc biêt, xin Thiên Chúa và Đức Mẹ Mông Triệu trong năm Giáp Thìn 2024 này luôn tuôn đổ thánh ân đến các ban ngành, đoàn thể, và toàn thể cộng đoàn dân Chúa, để gắn bó với nhau trong tình hiệp nhất, yêu thương.
🌻To those who are the young generations
If you already known 2024 is the year of the dragon. The dragon is believed an animal to possess characters of people who have ambition, energy, charisma, passion, enthusiasm, and natural leadership. You should learn and strive to posses those characters of the dragon pursue your goals and purposes in your journey of life.
Wish you lot of success in the new year. God bless you all.

 

🙏 🌷🙏Xin Thiên Chúa chúc phúc đặc biệt trong những ngày đầu năm của năm Giáp Thìn 2024 cho cộng đoàn Dân Chúa, tới từng cá nhân, từng nhà từng gia đình khắp nơi.

BAN THƯỜNG VỤ CỘNG ĐOÀN

 

 

 

 

 

Thánh Ca TẾT trong Thánh Lễ Minh Niên 2024

Trong bầu khí linh thiêng của đất trời chào đón Xuân Giáp Thìn 2024,  cộng đoàn giáo xứ St Boniface tại Anaheim đã long trọng cử hành Thánh lễ Minh niên, nhằm dâng lên Thiên Chúa lời tạ ơn qua những bài Thánh Ca chứa đựng lời cầu nguyện cao cả cho cá nhân, gia đình, giáo xứ, giáo hội và toàn thế giới.

 

Xin Thiên Chúa chúc phúc đặc biệt trong những ngày đầu năm của năm Giáp Thìn 2024 cho cộng đoàn Dân Chúa, tới từng cá nhân, từng nhà từng gia đình khắp nơi.

Chúc Tuổi Thọ các Đấng U80 trong Thánh Lễ Minh Niên

Hàng năm cộng đoàn vinh danh và chúc tuổi thọ các bác trên 80 tuổi, đặc biệt vào ngày đầu năm trong dịp Thánh Lễ minh niên, trong bầu khí thiêng liêng và vui Xuân với cộng đoàn vào cuồi Thánh Lễ.

 

Xin Thiên Chúa chúc lành và giữ gìn  các ông bà trong tuổi thọ, và vui Xuân cùng gia đình và cộng đoàn dân Chúa 

Chúa Nhật II MC- Năm B

Lời Chúa

25/02/2024
Chúa Nhật Tuần II Mùa Chay Năm B

Bài Ðọc I: St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18

Của hiến tế của Abraham Tổ phụ chúng ta”.

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: “Abraham, Abraham!” Ông đáp lại: “Dạ, con đây”. Chúa nói: “Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi”.

Khi hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: “Abraham, Abraham!” Ông thưa lại: “Dạ, con đây”. Người nói: “Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta”. Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình. Thiên thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: “Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 115, 10 và 15. 16-17. 18-19

Ðáp: Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (Tv 114, 9).

1. Tôi đã tin cậy ngay cả trong lúc tôi nói: “Tấm thân tôi trăm phần khổ cực!” Trước mặt Chúa thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài.

2. Ôi lạy Chúa, con là tôi tớ Chúa, con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẻ gãy xiềng xích cho con. Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa.

3. Tôi sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài, trong nơi hành lang nhà Chúa, ở giữa lòng ngươi, Giê-rusalem hỡi!

Bài Ðọc II: Rm 8, 31b-34

Thiên Chúa không dung tha chính Con mình”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta? Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta, há Người lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao? Ai sẽ tố cáo những kẻ Chúa chọn? (Chẳng lẽ là) chính Chúa, Ðấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án? (Chẳng lẽ là) Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta?

Ðó là lời Chúa

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 17, 5

Từ trong đám mây sáng chói, có tiếng Chúa Cha phán rằng: “Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.

Phúc Âm: Mc 9, 1-9

Ðây là Con Ta rất yêu dấu”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: “Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?”

Ðó là lời Chúa.



Suy Niệm Lời Chúa

25/02/2024

CHÚA NHẬT TUẦN 3 MC – B
Mc 9,2-10

CÁI GIÁ CỦA VINH QUANG

Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.(Mc 9,5)

Suy niệm:Không có con đường nào dẫn tới vinh quang lại trải đầy hoa” (La Fontaine). Để đạt được tấm huy chương vàng danh giá, các vận động viên Olympics đã khổ công tập luyện. Cái giá họ phải trả là mồ hôi và cả máu họ đổ ra suốt thời gian tập luyện và thi đấu nữa. Được chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa Trên núi Ta-bo, ba môn đệ đã mê mẩn, chỉ muốn ‘dựng lều’ để ở lại mãi trên núi với Thầy và các ông Mô-sê và Ê-li-a. Cho các ông thấy vinh quang của Ngài, Chúa muốn củng cố đức tin của họ trước cú ‘sốc’ của Ngài sẽ chịu khổ hình. Nhưng Chúa bắt các ông ‘xuống núi’ với mệnh lệnh phải giữ kín việc hiển dung này cho đến khi “Con Người từ cõi chết sống lại” để họ ý thức rằng thập giá Núi Sọ là cái giá phải trả cho vinh quang họ thấy trên Núi Hiển Dung, vinh quang chỉ đạt được nếu họ cùng đi với Ngài trên con đường thập giá.

Mời Bạn: Những cây thánh giá bằng vàng bạc sẽ chẳng có ý nghĩa gì ngoài việc trang sức nếu như bạn không vác những cây ‘thập giá’ trong đời bạn. “Vinh quang của ta là Thánh giá Đức Ki-tô”, đúng là vậy, nhưng chỉ đúng khi chúng ta “cùng vác thập giá với Ngài” rồi mới có thể “cùng Ngài phục sinh”.

Chia sẻ: Bạn sẽ hy sinh điều gì hoặc từ bỏ nết xấu nào nơi mình để có thể gọi là bạn vác thập giá mình theo Chúa Ki-tô?

Sống Lời Chúa: Đón nhận một sự gây  khó dễ, một lời chỉ trích hay phê phán từ người khác với thái độ tích cực.

Cầu nguyện: Lạy Thầy Giê-su chí thánh, xin cho con biết vác thập giá đời mình theo Thầy, hầu mai ngày cùng Thầy đạt tới phúc vinh quang. Amen.

Chúa Nhật I MC-Năm B

   Lời Nguyện Giáo Dân

Chủ Tế:  Anh chị em thân mến, sống tinh thần mùa Chay là khiêm nhường nhận ra thân phận con người mình còn nhiều tội lỗi thiếu sót, để từ đó ăn năn thống hối hoán cải tâm hồn trở về với Chúa. Với ước muốn quyết tâm trở về với Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.

 

  1. Chúng ta cầu xin Chúa cho Đức Thánh Cha Phanxicô và các Chủ Chăn trong Hội Thánh luôn kêt hợp mật thiết với Chúa Kitô, và nhờ sự thánh hóa hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để các Ngài dẫn dắt đoàn chiên Chúa luôn đứng vững trước mọi cám dỗ của thời đại hôm nay.

…….Chúng ta cầu xin Chúa.

 

  1. Xin cho những tâm hồn còn đang sống trong đam mê của danh vọng hão huyền, của tiền bạc bất chính, tham lam bấtt công, dục vọng xấu xa tội lỗi, được Chúa ban ơn hoán cải trở về với Chúa, và nhờ sức mạnh của Chúa nâng đỡ, mà vượt thắng các cám dỗ.

…….Chúng ta cầu xin Chúa.

 

  1. Xin cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ chúng con biết lợi dụng 40 ngày trong mùa Chay Thánh này, để canh tân hoán cải đời sống, siêng năng cầu nguyện, để từ đó thật lòng xám hối ăn năn tội lỗi và quyết tâm trở về với Chúa.

…….Chúng ta cầu xin Chúa.

 

  1. Chúng ta cầu nguyện theo những ý lễ cộng đoàn xin hôm nay: lễ tạ ơn, bình an, chửa lành, như ý, và các linh hồn được xin cầu nguyện hôm nay.

 ……..Chúng ta cầu xin Chúa.

 

Chủ Tế: Lạy Chúa, Chúa đã nêu gương và mời gọi chúng con vào nơi hoang địa với Chúa trong từng ngày sống của chúng con, qua những phút giây thinh lặng hy sinh và cầu nguyện, để được Thánh Thần Chúa thêm sức mạnh giúp chúng con chống trả các cám dỗ của ma qủy thế gian. Chúng con cầu xin nhờ Danh Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng con.

 

 

 

 

Chúa Nhật I MC- B

Lời Chúa

18/02/2024
Chúa Nhật Tuần I Mùa Chay Năm B

Bài Ðọc I: St 9, 8-15

“Giao ước giữa Thiên Chúa và ông Nôe sau khi ông này được cứu khỏi nướt lụt”.

Trích sách Sáng Thế.

Ðây Thiên Chúa phán cùng ông Nôe và con cái ông rằng: “Ðây Ta ký kết giao ước của Ta với các ngươi và con cháu các ngươi, với tất cả sinh vật đang sống với các ngươi, như chim chóc, gia súc, tất cả những thú vật đang sống trên mặt đất với các ngươi, những gì ra khỏi tàu và toàn thể thú vật trên mặt đất. Ta ký kết giao ước của Ta với các ngươi: nước lụt không còn tiêu diệt mọi loài nữa, cũng không khi nào còn lụt tàn phá trái đất nữa”. Và Thiên Chúa phán: “Ðây là dấu chỉ giao ước ký kết giữa Ta với các ngươi, và tất cả sinh vật đang ở với các ngươi và sau này mãi mãi. Ta sẽ đặt trên trời một cái mống, và nó sẽ là dấu chỉ giao ước giữa Ta với trái đất. Khi Ta quy tụ mây lại trên trời, mống sẽ xuất hiện trên mây, và Ta sẽ nhớ lại giao ước đã ký kết giữa Ta với các ngươi và mọi sinh vật, và không khi nào nước lụt tiêu diệt mọi loài như thế nữa!”

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 6-7bc. 8-9

Ðáp: Tất cả đường nẻo Chúa là ân sủng và trung thành dành cho những ai giữ minh ước và điều răn Chúa (x. c. 10).

1. Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa; xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.

2. Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa.

3. Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.

Bài Ðọc II: 1 Pr 3, 18-22

Hiện giờ phép thánh tẩy cũng cứu thoát anh em giống như thể thức ấy“.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, Chúa Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta, Người là Ðấng công chính thay cho kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa; thật ra Người đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại. Với Thần Linh, Người đã đến rao giảng cho những tâm hồn bị giam cầm, cho những kẻ xưa kia có lúc không tin, đang khi lòng nhân từ Chúa còn khoan giãn lúc ông Nôe đóng tầu, nhờ đó một số ít người, gồm tất cả tám người, được cứu khỏi nước lụt. Và hiện giờ, phép thánh tẩy cũng cứu thoát anh em cũng giống như thể thức ấy, vì phép ấy không phải chỉ rửa sạch thân xác, mà đó là lời cầu xin Thiên Chúa ban cho một lương tâm ngay thẳng, nhờ sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, Ðấng ngự bên hữu Thiên Chúa, sau khi về trời, đã bắt các thiên thần, các quyền thần và các đạo binh suy phục Người.

Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4,4b

Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

Phúc Âm: Mc 1, 12-15

Chúa chịu Satan cám dỗ và các Thiên Thần hầu hạ Người”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người. Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng của nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn, và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”.

Ðó là lời Chúa.



Suy Niệm Lời Chúa

18/02/2024

CHÚA NHẬT TUẦN 1 MC – B
Mc 1,12-15

CUỘC CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG

Chúa Giê-su ở trong hoang địa suốt bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ…, và có các thiên thần hầu hạ Người. (Mc 1,13)

Suy niệm: Mùa Chay là mùa “tập luyện chiến đấu thiêng liêng”. Trong cuộc chiến đó, Chúa Giê-su là vị tướng chỉ huy. Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mác-cô ngắn gọn nhưng cũng cho chúng ta biết Chúa Giê-su, mang bản tính con người, Ngài cũng đương đầu chiến đấu với những cơn cám dỗ và đã chiến thắng ma quỷ thế nào. Ngài không chỉ đi bước trước mở con đường chiến thắng cho chúng ta mà còn nêu gương cho chúng ta biết làm thế nào để chiến thắng trong cuộc chiến thiêng liêng của chúng ta.

Mời Bạn: Đời sống thiêng liêng là một cuộc chiến đấu không ngừng nghỉ với ba kẻ thù hiệp lực tấn công chúng ta, đó là ma quỷ, thế gian và chính xác thịt chúng ta. Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Không cần vào nơi rừng sâu núi thẳm mới là vào hoang địa; bằng việc thinh lặng cầu nguyện, cùng với những hy sinh khổ chế, bạn ở một mình kết hiệp với Chúa, đó là hoang địa ở ngay nội tâm mình; ở đó bạn tập quen từ bỏ ý riêng mình để khám phá thánh ý Chúa, và hành động thuận theo ý Ngài.

Sống Lời Chúa: Tích cực chọn làm những điều đẹp lòng Chúa trong mọi việc bổn phận hằng ngày.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa mời gọi chúng con bước vào mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Xin giúp chúng con hằng biết sống khổ chế, để ngày thêm vững mạnh mà chiến thắng ác thần. Xin Chúa thêm lòng tin, lòng cậy và lòng mến nơi con để nhờ ơn Chúa con có thể kiên trì trong cuộc chiến đấu này. Amen.

 

CHÚA NHẬT VI TN- NĂM B

Lời Chúa

11/02/2024
Chúa Nhật Tuần VI Mùa Thường Niên Năm B

Bài Ðọc I: Lv 13, 1-2. 44-46

“Người phong cùi phải ở riêng ngoài trại”.

Trích sách Lêvi.

Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: “Nếu người nào thấy da thịt mình xuất hiện màu sắc khác thường, hoặc mụn nhọt hay những vết bóng láng, đó là dấu bệnh phong cùi, phải đem họ đến tư tế Aaron, hoặc đến một vị nào trong các con trai của ông.

“Vậy ai mắc bệnh phong cùi, và tư tế ra lệnh phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 31, 1-2. 5. 11

Ðáp: Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ con khỏi điều nguy khổ

1. Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian!

2. Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: “Con thú thực cùng Chúa điều gian ác của con, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con”.

3. Chư vị hiền nhân, hãy vui mừng hân hoan trong Chúa, và mọi người lòng ngay hãy hớn hở reo mừng.

Bài Ðọc II: 1 Cr 10, 31 – 11, 1

“Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Ðức Kitô”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, dầu anh em ăn, dầu anh em uống, dầu anh em làm việc gì khác, anh em hãy làm mọi sự cho sáng danh Chúa. Anh em đừng nên cớ cho người Do-thái, dân ngoại hay Hội thánh của Thiên Chúa phải vấp phạm. Như tôi đây, tôi cố làm hài lòng mọi người trong mọi sự, không tìm điều gì lợi ích cho tôi, nhưng tìm điều lợi ích cho nhiều người, để họ được cứu rỗi. Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Ðức Kitô.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia

Phúc Âm: Mc 1, 40-45

“Bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”. Ðộng lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh”. Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch. Nhưng Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: “Anh hãy ý tứ đừng nói cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng mình đã được khỏi bệnh”. Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người.

Ðó là lời Chúa



Suy Niệm Lời Chúa

11/02/2024

CHÚA NHẬT TUẦN 6 TN – B
Mồng Hai Tết – Kính nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ
Mt 15,1-6

THỜ CHA KÍNH MẸ

“Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải xử tử.” (Mt 15,4)

Suy niệm: Dân Việt Nam từ ngàn xưa, ngay từ khi chưa nghe biết Tin Mừng đã ân cần tuân giữ điều răn “Thảo kính cha mẹ” rồi:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Câu ca dao ấy, người Việt Nam chúng ta già trẻ lớn bé ai mà không biết, bởi vì đạo hiếu đã ăn sâu trong tâm thức chúng ta từ bao đời nay rồi. Trong những ngày tết, đạo hiếu càng được nhấn mạnh với bầu khí gia đình thân mật ấm cúng: anh em họ hàng đoàn tụ; con cháu chúc tuổi ông bà, tưởng nhớ tổ tiên; ông bà dạy bảo con cháu giữ gìn nề nếp gia phong… Đạo hiếu thật là phù hợp với luật tự nhiên ghi khắc trong lương tâm mỗi người. Hơn nữa, Chúa Giê-su còn tiếp tục bảo vệ đạo hiếu bằng những lời răn đe nghiêm khắc: “Thiên Chúa dạy: ngươi phải thờ cha kính mẹ.” Thật khủng khiếp, Lời Chúa nói với ta hôm nay: “Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải xử tử.”

Mời Bạn: Bạn có nhận thấy tinh thần đạo hiếu nơi người trẻ ngày nay có phần bị phai nhạt do tác động của những chuyển biến xã hội không? Trong bối cảnh đó, khi chu toàn giới răn “Thảo kính cha mẹ,” bạn cũng đồng thời chấn hưng những giá trị truyền thống của dân tộc mình và dọn đường cho Tin Mừng đến với anh chị em đồng bào.

Chia sẻ: Bạn sẽ làm gì để xoá đi sự hiểu lầm nơi anh chị em lương dân rằng “theo đạo là bỏ ông bỏ bà”?

Sống Lời Chúa: Bạn bố trí lại bàn thờ tổ tiên theo tinh thần dân tộc và phù hợp với đức tin. Trong ngày giỗ, bạn mời cả những người họ hàng bên lương tham dự thánh lễ cầu cho ông bà.

Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha.

 

Hạnh Các Thánh-Tháng Hai

01/02/2024

1 Tháng Hai

Thánh Ansgar
(801 – 865)

Thánh Ansgar sinh trưởng trong một gia đình quý phái gần Amiens, sau đó trở thành một tu sĩ dòng Biển Ðức ở Corbie. Ba năm sau, ngài tháp tùng Vua Harold của Ðan Mạch trở về nước sau thời gian lưu đầy và ngài đã phát động công cuộc truyền giáo ở đây. Tuy nhiên không đạt được những thành quả đáng kể. Vua Bjorn của Thụy Ðiển xin các nhà truyền giáo đến hoạt động, và Thánh Ansgar đã đến đây, phải chịu đau khổ vì nạn hải tặc và những gian truân trên đường. Ngài thành lập Giáo Hội Kitô Giáo đầu tiên ở Thụy Ðiển. Chưa đầy hai năm sau, ngài được gọi về để làm tu viện trưởng ở New Corbie và là Ðức Giám Mục đầu tiên của Hamburg. Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô IV đặt ngài làm Ðại Diện Tòa Thánh ở các quốc gia Scandinavia. Sau khi hoàng đế Louis từ trần, ngân quỹ giúp đỡ cho công cuộc tông đồ miền bắc chấm dứt. Và sau 13 năm gầy dựng Hamburg, Thánh Ansgar phải chứng kiến cảnh tàn lụi của giáo phận khi giặc Northmen xâm lăng vào năm 845; nước Thụy Ðiển và Ðan Mạch lại trở về ngoại giáo.

Khoảng năm 848, ngài được bổ nhiệm là Ðức Tổng Giám Mục của Bremen, và Ðức Giáo Hoàng Nicôla I đã sát nhập Hamburg vào làm một với Bremen. Bởi đó, Thánh Ansgar lại trở lại Thụy Ðiển và Ðan mạch để phát động công cuộc truyền giáo khác và đã thành công trong việc hoán cải Erik, Vua của Jutland.

Nhật ký của Thánh Ansgar để lại cho thấy ngài là một người thuyết giảng phi thường, là một linh mục khiêm tốn và khổ hạnh. Ngài tận tuỵ với người nghèo và người đau yếu, noi gương Ðức Kitô trong việc rửa chân và phục vụ tha nhân. Ngài từ trần cách êm ái ở Bremen, nước Ðức, mà không đạt được ước nguyện là được tử đạo.

Sau khi ngài từ trần, cả vùng Scandinavia lại rơi vào tay ngoại giáo mãi cho đến hai thế kỷ sau. Tên của ngài có khi còn được viết là Anskar.



02/02/2024

2 Tháng Hai
  Dâng Hài Nhi Giêsu Vào Ðền Thánh

    Vào cuối thế kỷ thứ tư, một phụ nữ tên Etheria đã hành hương đến Giêrusalem. Cuốn hồi ký của bà, được khám phá vào năm 1887, thật bất ngờ đã đem lại một nét đại cương về sinh hoạt phụng vụ ở đây. Trong các dịp lễ mà bà viết lại là lễ Hiển Linh, kỷ niệm ngày Ðức Giêsu giáng sinh, và một cuộc rước để kính nhớ việc Dâng Chúa Trong Ðền Thờ vào 40 ngày sau — ngày 15 tháng Hai. (Trong luật Môisen, về phương diện lễ nghi, người phụ nữ được coi là “ô uế” sau khi sinh con, và bà phải “thanh tẩy” bằng cách đến trình diện với tư tế và dâng của lễ trong đền thờ. Tiếp xúc với bất cứ ai đã chạm đến bí ẩn của sự sinh nở và sự chết, đều bị loại trừ khỏi viêïc thờ phượng).

    Ngày lễ này được lan tràn khắp Giáo Hội Tây Phương trong thế kỷ thứ năm và thứ sáu. Nhưng Giáo Hội Tây Phương mừng sinh nhật Ðức Giêsu vào ngày 25 tháng Mười Hai, do đó lễ Dâng Chúa Trong Ðền Thờ được dời sang ngày 2 tháng Hai — 40 ngày sau Giáng Sinh.

    Vào đầu thế kỷ thứ tám, Ðức Giáo Hoàng Sergius mở đầu buổi lễ bằng một cuộc rước nến; cho đến cuối thế kỷ ấy việc làm phép và phân phát nến đã trở thành một phần của việc cử hành, bởi đó, cho đến ngày nay, ngày lễ này thường được gọi là: Candlemas (Lễ Nến).

    Lời Bàn

    Theo phúc âm Thánh Luca, Hài Nhi Giêsu được tiếp đón vào đền thờ bởi hai người lớn tuổi, là ông Simeon và bà Anna. Họ biểu hiện cho dân Israel đang kiên nhẫn trông chờ; họ xác nhận Hài Nhi Giêsu là đấng Messiah họ trông đợi từ lâu.

    Lời Trích

    “Chính Ðức Kitô đã nói, ‘Ta là sự sáng thế gian.’ Và chúng ta là ánh sáng, chính chúng ta, nếu chúng ta tiếp nhận ánh sáng từ Ngài… Nhưng làm thế nào để chúng ta tiếp nhận ánh sáng ấy, làm thế nào để ánh sáng ấy bùng lên? … Hình ảnh cây nến nói với chúng ta: qua sự cháy, và sự tàn lụi. Một ánh lửa, một tia đức ái, một hy sinh không thể tránh như cây nến tinh tuyền, thẳng tắp đang tuôn trào nguồn ánh sáng của nó, và đã tự tan biến trong sự hy sinh âm thầm” (Ðức Phaolô VI).



03/02/2024

3 Tháng Hai

Thánh Blaise
(c. 316)

Chúng ta biết nhiều về sự sùng kính của Kitô Hữu đối với Thánh Blaise hơn là tiểu sử của ngài. Trong Giáo Hội Ðông Phương, ngày lễ kính ngài được coi là một ngày lễ lớn. Công Ðồng Oxford, vào năm 1222 đã cấm làm việc xác trong ngày lễ Thánh Blaise. Người Ðức và người Ðông Âu rất kính trọng thánh nhân, và trong nhiều thập niên, người Công Giáo Hoa Kỳ thường chạy đến với thánh nhân để xin chữa bệnh đau cổ họng.

Chúng ta được biết Ðức Giám Mục Blaise chịu tử đạo ngay trong giáo phận của ngài ở Sebastea, Armenia, năm 316. Mãi cho đến 400 năm sau mới có huyền thoại viết về ngài. Theo đó, Thánh Blaise là một giám mục tốt lành, làm việc vất vả để khuyến khích giáo dân sống lành mạnh về tinh thần cũng như thể xác.

Mặc dầu Chỉ Dụ Toleration, năm 311, đã cho phép tự do tôn giáo ở Ðế Quốc Rôma hơn năm năm, nhưng ở Armenia, việc bách hại vẫn còn dữ dội. Hiển nhiên là Thánh Blaise buộc phải rời bỏ giáo phận và sống trong rừng núi. Ở đó ngài sống trong cô độc và cầu nguyện, làm bạn với thú rừng.

Một ngày kia, có nhóm thợ săn đi tìm thú dữ để sử dụng trong đấu trường và tình cờ họ đã thấy hang động của Thánh Blaise. Từ kinh ngạc cho đến sợ hãi, họ thấy vị giám mục đi lại giữa đám thú dữ một cách điềm tĩnh để chữa bệnh cho chúng. Nhận ra ngài là giám mục, họ bắt ngài về để xét xử. Trên đường đi, ngài ra lệnh cho một con sói phải thả con heo nó đang cắn giữ vì đó là của người đàn bà nghèo. Khi Thánh Blaise bị giam trong tù và bị bỏ đói, người đàn bà này đã đền ơn ngài bằng cách lẻn vào tù cung cấp thức ăn cho thánh nhân.

Ngoài ra, truyền thuyết còn kể rằng, một bà mẹ có đứa con trai bị hóc xương đã chạy đến ngài xin cứu giúp. Và sau lời truyền của Thánh Blaise, đứa bé đã khạc được chiếc xương ra khỏi cổ.

Agricolaus, Thủ Hiến xứ Cappadocia, tìm mọi cách để dụ dỗ Thánh Blaise bỏ đạo mà thờ tà thần. Lần đầu tiên từ chối, ngài bị đánh đập. Lần kế tiếp, ngài bị treo trên cây và bị tra tấn bằng chiếc lược sắt cào vào thân thể. Sau cùng ngài bị chém đầu.Lời Bàn

Bốn thế kỷ đủ để những điều tưởng tượng xen lẫn với những dữ kiện có thật. Ai dám đoan chắc tiểu sử Thánh Blaise là có thật? Nhưng chi tiết của một đời người thì không cần thiết. Thánh Blaise được coi là một thí dụ điển hình về quyền năng của những ai tận hiến cho Ðức Kitô. Như Ðức Kitô đã nói với các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly, “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, hãy xin bất cứ gì anh em muốn thì sẽ được ban cho” (Gioan 15:7). Với đức tin, chúng ta có thể vâng theo sự dẫn dắt của Giáo Hội để được sự che chở của Thánh Blaise.

Lời Trích

“Qua lời cầu bầu của Thánh Blaise, là giám mục và là vị tử đạo, xin Thiên Chúa chữa con khỏi bệnh tật của cổ họng và khỏi mọi sự dữ. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần” (Kinh cầu Thánh Blaise).

Trích từ NguoiTinHuu.com

3/2 – Thánh Blasiô, Giám mục (qua đời năm 316)

   Chúng ta biết nhiều về việc các tín đồ Kitô giáo khắp thế giới sùng kính thánh Blasiô hơn là biết về chính thánh nhân. Lễ kính ngài được coi như ngày thánh trong một số Giáo hội Đông phương. Công nghị Oxford, năm 1222, cấm làm việc xác vào ngày lễ thánh Blasiô ở Anh. Người Đức và Slavs đặc biệt tôn kính ngài và nhiều người Công giáo Mỹ xin thánh Blasiô chúc lành cho thanh quản của họ.

   Chúng ta biết rằng thánh Giám mục Blasiô tử đạo ở thành phố Sebastea, Armenia, năm 316. Sách Acts of St. Blase được viết vào 400 năm sau. Theo sách này, thánh Blasiô là một vị giám mục tốt lành, làm việc cần mẫn để khuyến khích sức khỏe tinh thần và thể lý của giáo dân. Mặc dù chỉ dụ Lòng Khoan Dung (năm 311), cho phép tự do tôn giáo ở đế quốc Rôma, đã được ban hành 5 năm, sự bắt đạo ở Armenia vẫn gay gắt. Thánh Blasiô phải trốn sang nước khác. Ngài sống ở đó như vị ẩn tu trong cảnh tĩnh mịch và cầu nguyện, chỉ làm bạn với thú rừng. Một hôm có một nhóm thợ săn tìm thú ở hang động của thánh Blasiô. Mới đầu họ ngạc nhiên rồi kinh sợ. Vị giám mục này quỳ gối cầu nguyện mà xung quanh là sói, sư tử và gấu.

   Khi những người thợ săn kéo thánh Blasiô ra, chuyện này trở thành truyền thuyết, một người mẹ bế đứa con nhỏ bị hóc xương cá đến, thánh nhân yêu cầu và đứa bé có thể ho bật xương cá ra.

   Agricolaus, thống sứ vùng Cappadocia, cố thuyết phục thánh Blasiô bỏ đạo. Lần đầu thánh nhân từ chối, và ngài bị đánh đập. Lần sau ngài bị treo lên cây và bị lóc thịt bằng chiếc bồ cào. Cuối cùng ngài bị chém đầu.

Trầm Thiên Thu dịch





04/02/2024

  4 Tháng Hai
    Thánh Giuse ở Leonissa
(1556 – 1612)

Thánh Giuse sinh ở Leonissa thuộc Vương Quốc Naples, ngài gia nhập dòng Capuchin ở nơi ngài sinh trưởng năm 1573. Ngài rèn luyện bản thân bằng cách kiêng ăn thịt và khước từ những tiện nghi, chuẩn bị cho thiên chức linh mục và cuộc đời rao giảng.

    Năm 1587 ngài đến Constantinople để chăm sóc các người Kitô Giáo đang làm nô dịch cho các chủ nhân người Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài bị cầm tù vì công việc ấy, và được cảnh cáo là không được tái phạm sau khi được thả tự do. Nhưng ngài lại tiếp tục sứ vụ và lại bị cầm tù, lần này ngài bị kết án tử hình. Lạ lùng thay ngài được trả tự do và trở về Ý, là nơi ngài rao giảng cho người nghèo và hòa giải hận thù giữa các gia đình, cũng như sự tranh chấp giữa các thành phố đã kéo dài trong nhiều năm trời. Ngài được phong thánh năm 1746.

    Lời Bàn

    Các thánh thường làm chúng ta nhột nhạt vì đời sống các ngài như thách đố chúng ta hãy suy nghĩ về những gì chúng ta cho là cần thiết của “một đời sống thoải mái.” Chúng ta nghĩ, “Tôi sẽ hạnh phúc khi…,” và chúng ta tốn không biết bao nhiêu thời giờ để lo lắng cho cái bề ngoài của cuộc sống. Những người như Thánh Giuse ở Leonissa thách đố chúng ta hãy can đảm đối diện với cuộc đời và hãy nhìn vào tâm điểm của nó: đó là một đời sống với Thiên Chúa. Thánh Giuse quả thật là một người rao giảng đại tài vì ngài đã minh chứng lời ngài nói bằng chính cuộc đời của ngài.

    Lời Trích

    Trong một bài giảng, Thánh Giuse ở Leonissa nói:”Mỗi Kitô Hữu phải là một cuốn sách sống động mà người ta có thể đọc được sự giảng dạy của Phúc Âm. Ðây là điều mà Thánh Phaolô nói với tín hữu Côrintô, ‘Hiển nhiên anh em là bức thư của Ðức Ki-tô mà tôi được giao phó, một bức thư không viết bằng mực, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng xương thịt trong tâm hồn con người.’ (2 Côrintô 3:3). Tâm hồn chúng ta là những mảnh giấy da; qua sứ vụ của tôi Chúa Thánh Thần là người viết vì ‘lưỡi tôi như cây bút của người viết’ (TV 45:1)”.

    Trích từ NguoiTinHuu.com

____________________________________________________________________

    4/2 – Thánh Giuse Leonissa (1556-1612)

       Tên đầy đủ là Gioan Eufranio Desideri, sinh ngày 8-1-1556 tại Leonissa, Umbria, Ý. Ngài là con thứ ba trong tám người con. Ngài mồ côi cha mẹ lúc 12 tuổi, được người chú là Battista Desideri, giáo viên ở Viterbo, nuôi dưỡng và cho ăn học. Giuse được mai mối kết hôn với một cô gái quý tộc, nhưng ngài lại muốn đi tu. Ngài sợ làm chú buồn và làm cô gái thất vọng, ngài trở về Leonissa. Ở đây, ngài ấn tượng về các tu sĩ dòng Phanxicô. Ngài nhập dòng Phanxicô (Capuchins) ngày 8-1-1573, lúc 18 tuổi. Sau một năm thỉnh sinh, ngài chính thức lấy tên dòng là Giuse. Ngài tự nguyện không ăn những cao lương mỹ vị và không dùng những gì tiện nghi, sống khổ hạnh, ăn chay mỗi tuần ba ngày, tay luôn cầm Thánh giá, nằm ngủ trên tấm ván.

       Giuse thụ phong linh mục ngày 24-12-1580 tại Amelia. Ngài truyền giáo khắp các vùng Umbria, Lazio và Abruzzi. Có băng cướp gồm 50 tên thường xuất hiện khi ngài giảng thuyết mùa Chay, và ngài đã khiến cả băng cướp này trở lại đạo. Ngài đến truyền giáo ở Pera, gần Constantinople (nay là Istanbul, Thổ nhĩ kỳ) ngày 1-8-1587. Ngài làm tuyên úy cho 4.000 nô lệ Công giáo. Ngài muốn làm thay cho một nô lệ nhưng chính quyền không chịu. Ngài gặp vua Hồi giáo (Sultan) nhiều lần để xin tự do tôn giáo. Ngài bị bắt và bị kết án vì vi phạm tài sản hoàng gia. Ngài bị treo trên khói lửa 3 ngày, rồi được tha. Mùa Thu năm 1589, ngài trở về Ý truyền giáo cho người nghèo và hòa giải các gia đình rối rắm nhiều năm qua.

       Ngài qua đời ngày thứ Bảy, 4-2-1612 tại Umbria, Ý, vì bệnh ung thư và biến chứng sau phẫu thuật. Ngài được ĐGH Clêmentô XII phong chân phước ngày 22-6-1737, và được ĐGH Bênêđictô XVI phong thánh ngày 29-6-1746.

    Trầm Thiên Thu dịch



05/02/2024

    5 Tháng Hai
    Thánh Agatha
(c. 251?)

    Cũng như trường hợp của Thánh Agnes, vị đồng trinh tử đạo thời Giáo Hội tiên khởi, chúng ta không có dữ kiện lịch sử chắc chắn về Thánh Agatha, ngoại trừ sự kiện ngài chịu tử đạo ở Sicily trong thời kỳ cấm đạo của hoàng đế Rôma là Decius năm 251.

    Theo truyền thuyết, ngài sinh trưởng trong một gia đình giầu có. Khi còn trẻ, ngài đã tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa, và từ chối bất cứ lời cầu hôn nào. Một trong những người say mê ngài là Quintian, một người có địa vị cao trong xã hội nên ông nghĩ rằng có thể ép buộc thánh nữ. Biết ngài là Kitô Hữu nên ông ra lệnh bắt giữ và đưa ra xét xử — bởi chính ông. Hy vọng rằng vì sợ hãi sự tra tấn và cái chết, thánh nữ sẽ đành phải trao thân cho ông. Nhưng ngài nhất quyết tin tưởng vào Thiên Chúa, và cầu nguyện rằng: “Lạy Ðức Giêsu Kitô, là Chúa mọi sự! Ngài đã thấy lòng con, Ngài biết con muốn gì. Xin hãy làm chủ toàn thể con người của con — chỉ mình Chúa mà thôi. Con là chiên của Ngài; xin giúp con vượt qua sự dữ một cách xứng đáng.”

    Sau đó, Quintian tống Agatha vào nhà gái điếm với hy vọng ngài sẽ thay đổi ý định. Sau một tháng bị đánh đập và xỉ nhục, Quintian lại đưa ngài ra xét xử, nhưng Thánh Agatha vẫn không lay chuyển, vẫn can đảm tuyên xưng rằng chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể ban cho ngài sự tự do. Quintian lại tống ngài vào ngục thay vì nhà gái điếm. Và khi ngài tiếp tục tuyên xưng đức tin nơi Chúa Giêsu, Quintian ra lệnh tra tấn. Trước khi chết, ngài cầu nguyện: “Lạy Chúa, là Ðấng dựng nên con, Ngài đã gìn giữ con từ khi còn trong nôi. Bởi tình yêu thế gian Ngài đã dẫn dắt con và ban cho con sự kiên nhẫn để chịu đựng đau khổ. Xin hãy nhận lấy linh hồn con.”

    Ngài được coi là quan thầy của xứ Palermo và Catania.

    Trích từ NguoiTinHuu.com

06/02/2024   

6 Tháng Hai
    Thánh Phaolô Miki và Các Bạn
(c. 1597)

    Thành phố Nagasaki, Nhật Bản, rất quen thuộc với mọi người vì đó là nơi trái bom nguyên tử thứ hai đã được thả xuống và giết hại hàng trăm ngàn người. Trước đó ba thế kỷ rưỡi, 26 vị tử đạo Nhật Bản đã bị treo trên thập giá ở một ngọn đồi nhìn xuống Nagasaki, bây giờ thường được gọi là Núi Thánh.

    Thánh Phaolô Miki là con của một sĩ quan chỉ huy thuộc quân đội Nhật. Ngài sinh ở Tounucumanda và theo học trường dòng Tên ở Anziquiama, gia nhập dòng năm 1580, và trở nên nổi tiếng vì tài rao giảng.

    Trong thời kỳ bách hại đạo Công Giáo dưới thời Taiko, Toyotomi Hideyoshi, vào ngày 5 tháng Hai, ngài bị treo trên thập giá cùng với hai mươi lăm người Công Giáo khác, trong đó có nhiều giáo dân, như: Phanxicô, một thợ mộc bị bắt trong khi theo dõi cuộc hành quyết và sau đó bị treo trên thập giá; Gabrien, mười chín tuổi là con trai của người gác cổng dòng Phanxicô; Leo Kinuya, hai mươi tám tuổi làm thợ mộc ở Miyako; Diego Kisai, phụ tá của các cha Dòng Tên; Joachim Sakakibara, người làm bếp cho các cha Phanxicô ở Osaka; Peter Sukejiro, được một linh mục dòng Tên sai đến giúp đỡ các tù nhân thì bị bắt; Cosmas Takeya quê Owari nhưng đi truyền giáo ở Osaka; và Ventura ở Miyako, lúc đầu được các cha dòng Tên rửa tội, sau đó khi thân phụ từ trần, ông trở nên một nhà sư, và sau cùng được các cha Phanxicô đưa trở lại Công Giáo

    Trong khi bị treo trên thập giá, Thầy Phaolô Miki đã nói với những người đến xem cuộc hành quyết: “Bản án nói rằng những người này đến Nhật Bản từ Phi Luật Tân, nhưng tôi đâu có đến từ quốc gia nào. Tôi đích thực là người Nhật. Lý do duy nhất tôi bị giết là vì tôi rao giảng giáo lý Ðức Kitô. Quả thật tôi đã rao giảng giáo lý Ðức Kitô. Tôi tạ ơn Thiên Chúa vì lý do này mà tôi chết. Tôi tin rằng những lời trăn trối của tôi là sự thật. Tôi biết quý vị tin tôi và một lần nữa tôi muốn nói với quý vị: Hãy xin Ðức Kitô giúp cho quý vị có được hạnh phúc. Tôi vâng lời Ðức Kitô. Theo gương Ðức Kitô, tôi tha cho những người đã hành quyết tôi. Tôi không ghét họ. Tôi xin Thiên Chúa thương xót tất cả chúng ta, và tôi hy vọng máu của tôi sẽ đổ trên dân tôi như một cơn mưa nhiều kết quả.”

    Khi các nhà truyền giáo trở lại Nhật trong những năm 1860, lúc đầu họ không thấy một vết tích nào của Kitô Giáo. Nhưng sau một thời gian, họ tìm thấy hàng ngàn người Kitô đã sống chung quanh Nagasaki và họ sống đạo một cách lén lút.

    Tất cả các vị tử đạo Nhật Bản được phong chân phước năm 1627, và phong thánh năm 1862.

    Lời Bàn

    Ngày nay, một thời đại mới đã đến với Giáo Hội Nhật. Mặc dù số người Công Giáo không nhiều, nhưng Giáo Hội được tôn trọng và được tự do tôn giáo. Việc phát triển Kitô Giáo ở Viễn Ðông thì chậm và khó khăn. Một đức tin như của 26 vị tử đạo thì rất cần thiết cho ngày nay cũng như trước đây, trong năm 1597.

    Lời Trích

    “Vì Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã thể hiện lòng bác ái của Người bằng cách hy sinh mạng sống cho chúng ta, không ai có tình yêu nào cao quý hơn người đã hy sinh mạng sống vì Ðức Kitô và anh chị em mình. Bởi đó, ngay từ thời sơ khai, một số Kitô Hữu đã được mời gọi — và chắc chắn sẽ được mời gọi luôn — để làm chứng cho tình yêu ấy cách hùng hồn trước muôn dân, nhất là những kẻ bách hại. Do đó, Giáo Hội coi sự tử đạo như một ơn huệ đặc biệt và là bằng chứng cao cả nhất của tình yêu.

    “Mặc dù chỉ một ít người được ban cho cơ hội tử đạo, nhưng tất cả phải chuẩn bị để tuyên xưng Ðức Kitô trước mặt mọi người, và bước theo Người trên đường thập giá giữa những sự bách hại không bao giờ thiếu trong Giáo Hội” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, 42).

    Trích từ NguoiTinHuu.com

07/02/2024

7 Tháng Hai

Thánh Colette
(1381 – 1447)

Thánh Colette không muốn được mọi người biết đến, nhưng trong khi thi hành thánh ý Thiên Chúa, ngài đã gây được sự chú ý của rất nhiều người.

Thánh Colette là con của người thợ mộc tên DeBoilet ở Tu Viện Corby trong thành phố Picardi, nước Pháp. Ngài sinh ngày 13 tháng Giêng, khi rửa tội lấy tên là Nicolette, và thường được gọi là Colette. Năm mười bảy tuổi ngài mồ côi cha mẹ, và đã chia bớt di sản cho người nghèo. Ngài gia nhập dòng Ba Phanxicô, và sống cô độc ở Corby trong một căn phòng mà lối mở ra thế giới bên ngoài chỉ là cánh cửa sổ sát vách với nhà thờ.

Sau bốn năm, với sự chấp thuận và khuyến khích của đức giáo hoàng, ngài từ bỏ cuộc sống cô độc, gia nhập dòng Thánh Clara Nghèo Hèn và cải tổ dòng theo như quy tắc ban đầu của Thánh Clara. Bất kể sự chống đối dữ dội, ngài kiên trì theo đuổi ý định, thành lập mười bảy tu viện sống theo quy tắc này và cải tổ một vài tu viện cũ. Các nữ tu của ngài nổi tiếng là nghèo hèn — họ từ chối bất cứ lợi tức nào — và thường xuyên chay tịnh.

Thánh Colette nổi tiếng vì sự thánh thiện, sự xuất thần, và các lần thị kiến sự Thương Khó, và ngài đã tiên đoán đúng về cái chết của ngài trong tu viện ở Ghent, nước Bỉ.

Phong trào cải cách của thánh nữ đã lan tràn sang các quốc gia khác. Cho đến ngày nay, một nhánh của dòng Thánh Clara Nghèo Hèn thường được gọi là các nữ tu Colette. Thánh nữ được phong thánh năm 1807.

Lời Bàn

Thánh Colette bắt đầu cuộc cải cách trong thời kỳ Ðại Ly Giáo Tây Phương (1378-1417), là thời kỳ có đến ba giáo hoàng và bởi đó đã chia cắt Giáo Hội Tây Phương. Một cách tổng quát, Giáo Hội phải trả một giá rất đắt cho sự nhũng lạm của các giáo sĩ trong thế kỷ 15; lời cầu nguyện và sự hy sinh của Thánh Colette và các nữ tu của ngài có lẽ đã vơi bớt những khốn khó cho Giáo Hội trong thời gian ấy. Trong bất cứ trường hợp nào, sự cải tổ của Thánh Colette cho thấy Giáo Hội luôn luôn cần theo sát Ðức Kitô.

Lời Trích

Trong chúc thư tinh thần, Thánh Colette viết cho các nữ tu:“Chúng ta phải trung tín với những gì đã hứa. Nếu vì sự yếu đuối con người mà chúng ta sa ngã, một cách mau mắn chúng ta phải chỗi dậy luôn qua sự thành tâm sám hối, và chú ý đến một đời sống tốt lành, cũng như một cái chết thánh thiện. Xin Thiên Chúa là Cha của lòng thương xót, xin Ðức Chúa Con qua sự thống khổ thánh thiện, và xin Chúa Thánh Thần, nguồn mạch của bình an, nhân hậu và tình yêu, luôn tràn lấp chúng ta với ơn an ủi của các Ngài. Amen.”



08/02/2024

8 Tháng Hai
    Thánh Giêrôme Emiliani
(1481 – 1537)

    Khi còn là một sĩ quan đầy tự tin và khô đạo, chỉ huy một pháo đài của thành phố Venice, Giêrôme Emiliani bị bắt sau vụ tấn công của địch thủ là Liên Minh Cambrai và bị nhốt trong một tháp canh. Chính trong thời gian tù đầy này, Giêrôme đã có thời giờ suy nghĩ, và ngài quyết định thoát khỏi xiềng xích ràng buộc chính mình. Ngài khước từ mọi quyến luyến của thế gian và trở về với Thiên Chúa.

    Sau khi vượt thoát ngục tù, ngài treo xiềng xích ở nhà thờ Treviso gần đó — như để nói lên lòng biết ơn đã được tự do không những về phần xác mà còn được giải thoát phần tinh thần.

    Sau một thời gian ngắn làm thị trưởng Treviso, ngài trở về Venice là nơi ngài theo học làm linh mục. Nhiều năm sau khi thụ phong, chiến tranh đã chấm dứt nhưng nhiều biến cố xảy đến đã khiến Cha Giêrôme thay đổi đời sống. Một trận dịch và nạn đói đã càn quét khắp cả miền bắc nước Ý. Cha Giêrôme lại xung phong trong việc chăm sóc bệnh nhân và nuôi người đói. Ngài cảm thấy có ơn gọi đặc biệt trong việc chăm sóc các trẻ em mồ côi. Bằng chính tài sản của mình, ngài sáng lập ba cô nhi viện, một trung tâm hoàn lương cho các cô gái điếm và một bệnh viện. Từ đó dẫn đến việc thành lập một tu hội cho các linh mục và các thầy mà tên của tu hội là tên nơi sáng lập: Tu Hội Somascha. Mặc dù tu hội dành toàn thời giờ để giáo dục thanh thiếu niên, công việc chính của họ vẫn là đam mê đầu tiên của Cha Giêrôme — đó là chăm sóc các em cô nhi.

    Xiềng xích cuối cùng của Cha Giêrôme được tháo bỏ là khi ngài lâm bệnh vì chăm sóc bệnh nhân. Ngài từ trần năm 1537 hưởng thọ 56 tuổi.

    Ngài được phong thánh năm 1767, và năm 1928, Ðức Piô XI đặt ngài làm quan thầy các trẻ mồ côi và các em bị bỏ rơi.

    Lời Bàn

    Trong cuộc đời chúng ta, nhiều khi phải tự “giam hãm” mình để thoát khỏi xiềng xích của cái tôi. Khi chúng ta bị “kẹt” trong những trường hợp mà mình không muốn, lúc đó chúng ta mới nhận ra sức mạnh giải thoát của một Ðấng khác. Và chỉ lúc ấy chúng ta mới có thể trở nên một người khác cho những “kẻ tù đầy” và các “em cô nhi” chung quanh chúng ta.

    Lời Trích

    “‘Cha của các em cô nhi và người bảo vệ các bà goá là Thiên Chúa trong sự hiện diện thánh thiêng của Ngài. Thiên Chúa ban nơi trú ngụ cho những kẻ bị bỏ rơi; Ngài dẫn các tù nhân đến chỗ thành công; chỉ kẻ phản loạn mới phải ở trong phần đất khô khan’ (TV 68)& Chúng ta không thể quên đi số người ngày càng gia tăng vì bị gia đình và cộng đồng bỏ rơi: đó là người già, trẻ cô nhi, người đau yếu và những người bị tẩy chay& Chúng ta phải chuẩn bị để lãnh nhận nhiệm vụ mới và chức năng mới trong mọi sinh hoạt của con người, và nhất là trong tổ chức xã hội, nếu thực sự muốn thể hiện sự công bằng. Trên tất cả, hành động của chúng ta phải nhắm đến những người và những quốc gia mà, vì những hình thức đàn áp và vì yếu tính của xã hội, họ không có tiếng nói và là nạn nhân của sự bất công” (Sự Công Bằng Trong Thế Giới, Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới 1971).

   8 Tháng Hai

    Thánh Josephine Bakhita
(k. 1868-1947)

    Thánh Josephine Bakhita sinh ở Sudan, được coi là người nô lệ Phi Châu đầu tiên được Giáo Hội phong thánh. Vào lúc 10 tuổi, ngài bị bắt cóc bởi bọn buôn nô lệ và được đặt tên là “Bakhita,” hoặc “đứa may mắn.” Bị buôn đi bán lại ở các thị trường El Obeid và Khartoum, Bakhita phải trải qua đủ loại đau khổ về tinh thần, tâm lý và thể xác vì thân phận nô lệ. Khi lần sau cùng cô được bán cho ông Callisto Legnani, vị lãnh sự Ý thực tâm muốn giải thoát cô, thì cuộc đời cô mới thực sự thay đổi.

    Khi vị lãnh sự trở về Ý vì lý do chính trị thì Bakhita cũng xin tháp tùng gia đình ông. Mặc dù sau đó cô tiếp tục làm công cho một gia đình khác, cuộc đời Bakhita ở Ý là một cuộc đời hạnh phúc. Cô được đối xử tử tế và được tôn trọng.

    Cô cũng làm quen với các nữ tu dòng Bác Ái Canossa ở Venice; chính họ là những người đã nói với cô về Thiên Chúa là Ðấng mà tự nhiên cô bị thu hút đến với Người. Sau nhiều tháng học hỏi, cô được tháp nhập vào Giáo Hội qua các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Rước Lễ. Cô lấy tên mới là Josephine để đánh dấu một cuộc đời mới trong Ðức Kitô.

    Vài năm sau Josephine gia nhập tu viện Bác Ái Canossa ở Venice. Trong 50 năm tiếp đó, cô là một nữ tu nổi tiếng về đạo đức và công việc bác ái. Trong suốt cuộc đời tu trì, sơ Josephine đảm trách các công việc rất tầm thường nhưng cần thiết cho nhà dòng — nấu ăn, may vá, giữ cửa tu viện ở Schio, gần Padua. Thái độ hiền lành, hòa nhã và giọng nói êm ả của sơ là sự an ủi cho những người nghèo và người đau khổ thường đến với nhà dòng xin giúp đỡ.

    Mặc dù tuổi tác đem lại sức khỏe yếu kém, sơ Josephine vẫn là một nhân chứng của hy vọng và thiện tâm. Trong những giờ phút cuối đời, dường như sơ sống lại những ngày kinh hoàng của đời nô lệ. Người ta nghe sơ rên rỉ nói người y tá rằng “Làm ơn nới lỏng cái xích sắt ấy một chút… nó nặng quá!”

    Sơ được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước năm 1992. Vào năm kế đó, khi Ðức Thánh Cha thực hiện cuộc tông du sang Phi Châu, mẹ bề trên dòng Canossa đã dâng lên ngài các di tích của Chân Phước Josephine. Trong bài giảng, đức giáo hoàng nói: “Hãy vui lên, hỡi tất cả Phi Châu! Bakhita đã trở lại với ngươi: ngài là con gái của Sudan, bị bán làm nô lệ như một món hàng, tuy thế ngài vẫn tự do: tự do của các thánh.”

    Vào tháng Mười 2000, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài.

    Lời Trích

    “Khi nhìn thấy mặt trời, mặt trăng và muôn tinh tú, tôi tự nhủ, ‘Ai có thể là Chủ Nhân của những vật mỹ miều ấy?’ Tôi vô cùng khát khao để thấy Người, để biết Người và để thần phục Người.” (Chân Phước Josephine Bakhita).

    Trích từ NguoiTinHuu.com



09/02/2024

9 Tháng Hai
Thánh Giles Mary của Thánh Giuse
(1729 – 1812)

    Chính trong năm Napoleon Bonaparte dẫn quân vào Nga thì Giles Mary của Thánh Giuse chấm dứt cuộc đời khiêm hạ phục vụ cộng đồng Phanxicô và người dân thành Naples.

    Tên thật của ngài là Francesco, sinh ở Taranto trong gia đình rất nghèo, và mồi côi cha khi 18 tuổi. Ðể đảm bảo tương lai, ngài gia nhập dòng Phanxicô Khất Thực (Anh Em Hèn Mọn) ở Galatone năm 1754. Trong 53 năm, ngài phục vụ ở Nhà Tế Bần Thánh Paschal ở Naples trong nhiều vai trò, như nấu nướng, gác cửa hoặc thường xuyên nhất là đi khất thực cho cộng đồng.

    “Mến yêu Thiên Chúa” là đặc tính của ngài trong khi góp nhặt thực phẩm cho các tu sĩ dòng và chia sẻ lòng quảng đại với người nghèo — đồng thời an ủi những người gặp khó khăn và khuyến khích mọi người sám hối. Ðức tính mà ngài thể hiện trên đường phố ở Naples được phát sinh từ sự cầu nguyện và được nuôi dưỡng trong đời sống cộng đồng của anh em hèn mọn. Những người gặp ngài đi xin ăn thường gọi ngài là “Người an ủi của Naples”. Ngài được phong thánh năm 1996.

    Lời Bàn

    Người ta thường trở nên kiêu ngạo và thèm khát quyền lực khi họ không thành thật trong lối sống, tỉ như, khi họ quên đi tội lỗi của mình và làm như không biết đến các ơn sủng mà Thiên Chúa ban cho người khác. Thánh Giles có một nhận thức lành mạnh về tội lỗi của chính mình — không làm tê liệt cũng không quá hời hợt. Ngài mời gọi mọi người nhận ra ơn sủng của mình, và sống xứng đáng với phẩm giá của chúng ta là những người được tạo dựng trong hình ảnh của Thiên Chúa.

    Lời Trích

    Trong bài giảng nhân dịp lễ phong thánh, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói rằng hành trình tâm linh của Thánh Giles phản ảnh”đức khiêm hạ của sự Nhập Thể và sự độ lượng của Thánh Thể” (L’Observatore Romano 1996, tập 23, số 1).

    Trích từ NguoiTinHuu.com



10/02/2024

    10 Tháng Hai
    Thánh Scholastica
(480 – 542?)

    Anh em sinh đôi thường giống nhau về tính nết và tư tưởng cũng như nhiệt huyết. Do đó, người ta không ngạc nhiên khi Thánh Scholastica và người anh sinh đôi là Thánh Biển Ðức (Benedict), đều sáng lập các tu hội chỉ cách nhau có vài dặm.

    Sinh trong một gia đình giầu có, Scholastica và Benedict cùng lớn lên cho đến khi Benedict xa nhà đi học ở Rôma. Chúng ta không biết nhiều về thời niên thiếu của Thánh Scholastica. Sau này, ngài sáng lập dòng nữ tu ở Ý gần rặng Cassino, thuộc Plombariola, cách tu viện của anh ngài chỉ có năm dặm.

    Mỗi năm hai anh em chỉ gặp nhau có một lần, trong một nông trại, vì Scholastica không được phépvào tu viện. Cả hai dành thời giờ để thảo luận về các vấn đề tinh thần.

    Theo cuốn Ðối Thoại của Thánh Grêgôriô Cả, trong lần sau cùng hai anh em gặp nhau để cầu nguyện và truyện trò, Thánh Scholastica cảm thấy cái chết của mình gần kề nên nài xin anh Benedict ở với ngài cho đến ngày hôm sau.

    Thánh Benedict từ chối lời yêu cầu ấy vì ngài không muốn ở đêm bên ngoài tu viện, vì như thế chính ngài sẽ phá vỡ quy luật do ngài đặt ra. Thánh Scholastica xin Thiên Chúa cho phép anh mình ở lại, và một trận mưa lớn đổ xuống như thác khiến Benedict và các tu sĩ đi theo ngài không thể trở về tu viện.

    Thánh Benedict kêu lên, “Xin Chúa tha tội cho em. Em làm cái gì vậy?” Thánh Scholastica trả lời, “Em xin anh một ơn huệ và anh từ chối. Em xin Chúa, và Chúa nhận lời.”

    Ba ngày sau, khi Thánh Benedict cầu nguyện trong tu viện thì ngài nhìn thấy linh hồn của em mình bay lên trời trong dạng chim bồ câu trắng. Thánh Benedict sai các tu sĩ đem xác của em mình về dòng và chôn trong chính ngôi mộ mà thánh nhân đã chuẩn bị cho mình.

    Thánh Scholastica từ trần vào khoảng năm 543, và sau đó không lâu Thánh Benedict cũng từ giã cõi đời.

    Lời Bàn

    Thánh Scholastica và Benedict đã hiến mình trọn vẹn cho Thiên Chúa, và coi trọng việc kết giao bằng hữu với Chúa qua sự cầu nguyện. Các ngài đã hy sinh một số cơ hội sẵn có để cùng nhau thực hiện ơn gọi tu trì. Tuy nhiên, khi càng gần gũi với Ðức Kitô bao nhiêu, họ càng cảm thấy gần nhau hơn. Khi gia nhập cộng đồng tu sĩ, họ đã không quên và cũng không bỏ rơi gia đình mà trái lại họ có thêm các anh chị em mới.

    Lời Trích

    “Mọi tu sĩ đều có bổn phận, tùy theo ơn gọi thích hợp, để cộng tác cách nhiệt thành và siêng năng trong việc xây dựng và gia tăng Nhiệm Thể Ðức Kitô, và vì lợi ích tốt lành riêng của các cộng đồng… Họ có nhiệm vụ ấp ủ các mục tiêu này một cách chính yếu qua sự cầu nguyện, việc đền tội và sống gương mẫu” (Sắc Lệnh về các Giám Mục, 33).

    Trích từ NguoiTinHuu.com



11/02/2024

 11 Tháng Hai
    Ðức Mẹ Lộ Ðức

    Vào ngày 8 tháng Mười Hai 1854, Ðức Giáo Hoàng Piô IX tuyên bố tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Hiến Chế Ineffabilis Deus. Khoảng hơn ba năm sau, vào ngày 11 tháng Hai 1858, một trinh nữ đã hiện ra với Bernadette Soubirous, mở đầu cho một chuỗi thị khải. Trong lần hiện ra ngày 24 tháng Ba, trinh nữ này tự xưng là: “Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.”

    Bernadette là một thiếu nữ yếu ớt, con của hai ông bà người nghèo và không có tham vọng. Việc sống đạo của họ cũng không có gì đáng nói. Bernadette chỉ biết đọc kinh Lạy Cha, Kính Mừng và kinh Tin Kính. Cô còn biết đọc kinh cầu Linh Ảnh(*): “Ôi Ðức Maria được thụ thai mà không mắc tội.”

    Trong những lần phỏng vấn, Bernadette cho biết những gì cô được nhìn thấy. Cô cho biết “cái gì đó mầu trắng trong hình dạng một thiếu nữ.” Cô dùng chữ “Aquero,” tiếng địa phương có nghĩa “cái này.” Ðó là “một thiếu nữ xinh đẹp với chuỗi tràng hạt trên tay.” Áo choàng trắng của ngài có viền xanh. Ngài đội khăn trắng. Trên mỗi bàn chân đều có hoa hồng màu vàng. Bernadette cũng ngạc nhiên ở sự kiện là trinh nữ này không gọi cô với danh xưng bình dân “tu”, nhưng với ngôn từ rất lịch thiệp “vous”. Người trinh nữ khiêm tốn ấy hiện ra với một cô gái bình dân và đã đối xử với cô như một người có phẩm giá.

    Thanh Bernadette Soubiroux Qua một cô gái bình dân, Ðức Maria đã làm hồi sinh và tiếp tục làm sống dậy đức tin của hàng triệu người. Dân chúng bắt đầu đổ về Lộ Ðức từ khắp nơi trong nước Pháp cũng như toàn thế giới. Vào năm 1862, giới thẩm quyền Giáo Hội công nhận tính cách xác thực của những lần hiện ra và cho phép sùng kính Ðức Mẹ Lộ Ðức. Năm 1907, lễ Ðức Mẹ Lộ Ðức được cử mừng khắp hoàn vũ.

    Lời Bàn

    Lộ Ðức đã trở nên trung tâm hành hương và chữa lành, nhưng nhất là đức tin. Giới thẩm quyền của Giáo Hội công nhận 64 phép lạ chữa lành, mặc dù trên thực tế có lẽ nhiều hơn thế. Ðối với những người có đức tin thì không có gì ngạc nhiên. Ðó là sứ vụ chữa lành của Chúa Giêsu được tiếp tục thể hiện qua sự can thiệp của mẹ Người.

    Nhiều người cho rằng các phép lạ lớn lao hơn thì rất bàng bạc. Nhiều người đến Lộ Ðức và trở về với một đức tin được đổi mới, sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa trong các nhu cầu của tha nhân. Tuy nhiên vẫn còn nhiều người nghi ngờ việc hiện ra ở Lộ Ðức. Ðể nói với họ, có lẽ tốt hơn là dùng những lời mở đầu của cuốn phim “Song of Bernadette”: “Với những ai tin vào Chúa thì không cần giải thích. Với những người không tin, thì chẳng sự giải thích nào đầy đủ.”

    Trích từ NguoiTinHuu.com





12/02/2022

    12 Tháng Hai
    Thánh Phêrô Baptist và Các Bạn
(c. 1597)

    Nagasaki nổi tiếng đối với chúng ta vì một trái bom nguyên tử đã thả xuống đây năm 1945. Thành phố ấy cũng nổi tiếng đối với dòng Phanxicô vì một số tu sĩ và anh chị em dòng ba đã được tử đạo ở đây năm 1597.

    Cha Phêrô Baptist Blasquez sinh năm 1542 trong một gia đình quyền quý ở Tây Ban Nha; ngài gia nhập dòng Phanxicô ở quê nhà. Ngài làm việc vài năm ở quần đảo Phi Luật Tân, và năm 1592 ngài được cử làm đại diện cho Vua Philip II của Tây Ban Nha để thương thảo hòa bình với Hideyoshi, đang nắm quyền ở Nhật Bản.

    Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Cha Phêrô Baptist và một vài tu sĩ ở lại Nhật để truyền bá tin mừng. Sự thành công của họ trong công cuộc truyền giáo, qua việc thành lập các tu viện, nhà thờ cũng như bệnh viện khiến Hideyoshi lo sợ. Vào tháng Mười Hai 1596, ông ra lệnh bắt giam Cha Phêrô Baptist, hai vị linh mục Phanxicô khác, hai thầy, một giáo sĩ, 17 người Nhật thuộc dòng Ba Phanxicô và ba vị linh mục dòng Tên.

    Tất cả bị kết án tử hình vào đầu tháng Giêng ở Miyako, họ bị đưa về Nagasaki trong chuyến hành trình bằng đường thủy lâu đến bốn tuần lễ. Vào ngày 5 tháng Hai 1597, tất cả bị treo trên thập giá và bị đâm thâu qua bằng giáo. Tất cả được phong thánh năm 1862.

    Lời Bàn

    Sự “hy sinh” mà Thánh Phêrô Baptist đề cập đến đã sinh kết quả (xem Lời Trích bên dưới). Trong thập niên 1860, các nhà truyền giáo lại đến Nagasaki và họ tìm thấy một côäng đoàn Kitô Giáo tuy nhỏ nhưng thật vững mạnh, được khai sinh vào lúc các vị chịu tử đạo. Những người Công Giáo này, thường xuyên đến với nhau, đọc Sách Thánh và lần chuỗi mai khôi để giữ vững đức tin. Các nhà truyền giáo luôn tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ hoàn tất công trình của họ. Một công việc tốt lành – trong sứ vụ truyền giáo hoặc bất cứ nơi đâu – thì không bao giờ uổng phí.

    Lời Trích

    Ba ngày trước khi bị tử hình, Thánh Phêrô Baptist viết cho các bạn ở ngoài nước Nhật:”Vì tình yêu Thiên Chúa, ước mong sao nhân đức của các bạn sẽ phó thác chúng tôi cho Thiên Chúa, để Ngài chấp nhận hy lễ cuộc đời chúng tôi. Qua những gì tôi nghe được ở đây, tôi nghĩ chúng tôi sẽ bị treo trên thập giá vào thứ Sáu này, vì chính vào ngày thứ Sáu mà họ cắt tai mỗi người ở Miyako, là một biến cố chúng tôi chấp nhận như món quà của Thiên Chúa. Do đó, vì tình yêu Thiên Chúa, chúng tôi xin các bạn hãy tha thiết cầu nguyện cho chúng tôi.”



13/02/2022

13 Tháng Hai
Thánh Ciryl và Thánh Methodius
(c. 869, c. 884)

Vì thân phụ của hai thánh nhân là một sĩ quan trong phần đất của Hy Lạp nhưng có nhiều người Slav chiếm ngụ, do đó hai anh em thánh nhân đã trở nên nhà truyền giáo, thầy dạy và quan thầy của người Slav.

Sau thời gian học tập, Cyril (thường được gọi là Constantine cho đến khi ngài trở thành tu sĩ ít lâu trước khi từ trần) đã từ chối địa vị trong chính quyền mà anh ngài đã chấp nhận làm việc cho những người nói tiếng Slav. Ngài gia nhập một đan viện là nơi anh ngài, Methodius, đã là một đan sĩ sau thời gian giữ chức vụ trong chính quyền.

Một quyết định đã thay đổi cuộc đời của các ngài khi Công Tước của Moravia xin Hoàng Ðế Micae của Ðông Phương cho được độc lập về chính trị với nhà cầm quyền Ðức, và được tự trị về phương diện tổ chức giáo hội (có giáo sĩ và phụng vụ riêng). Cyril và Methodius đã lãnh nhận công việc truyền giáo này.

Công việc đầu tiên của Cyril là sáng chế ra bản mẫu tự, giống như mẫu tự vẫn được dùng trong phụng vụ ở các phần của Nam Tư cũ. Những người theo ngài có lẽ đã hình thành mẫu tự Cyrillic từ các chữ cái của Hy Lạp. Ngày nay, họ dịch Phúc Âm, Thánh Thi, Thánh Thư và các sách phụng vụ sang tiếng Slav, và sáng tác phần phụng vụ bằng tiếng Slav rất đặc biệt.

Vì lý do đó và vì việc xử dụng tiếng mẹ đẻ đã dẫn đến việc chống đối của hàng giáo sĩ Ðức. Các giám mục Ðức từ chối việc tấn phong các giám mục và linh mục Slav, và Cyril buộc phải thỉnh cầu lên Rôma. Trong chuyến viếng thăm Rôma, hai anh em thánh nhân đã vui sướng khi thấy bản văn phụng vụ mới của họ được Ðức Giáo Hoàng Adrian II chấp thuận. Nhưng Cyril không bao giờ trở lại Moravia nữa, ngài từ trần ở Rôma sau 50 ngày nhận áo dòng.

Methodius tiếp tục công cuộc truyền giáo trên 16 năm nữa. Ngài là đại diện giáo hoàng đối với toàn thể người dân Slav, được tấn phong giám mục và được giao cho trông coi một giáo phận cũ (thuộc Nam Tư). Khi lãnh thổ trước đây thuộc về họ nay bị tước khỏi quyền tài phán, vị giám mục Bavaria đã trả thù với hàng loạt điều cáo buộc Ðức Methodius. Kết quả là Hoàng Ðế Louis của Ðức đã lưu đầy Ðức Methodius trong ba năm. Sau đó Ðức Giáo Hoàng Gioan VIII đã đảm bảo sự tự do cho ngài.

Hàng giáo sĩ người Frank vẫn còn ấm ức nên họ tiếp tục chụp mũ, và Ðức Methodius phải sang Rôma để bảo vệ ngài khỏi điều cáo buộc về tội lạc giáo và xin duy trì việc dùng bản văn phụng vụ Slav. Một lần nữa ngài lại thành công.

Truyền thuyết nói rằng, trong một giai đoạn cực kỳ hăng say, Ðức Methodius đã chuyển dịch toàn bộ Phúc Âm sang tiếng Salv chỉ trong vòng tám tháng. Ngài từ trần vào ngày thứ Ba Tuần Thánh, với các môn đệ tụ tập chung quanh. Sau khi ngài chết sự chống đối vẫn chưa dứt, và công trình của hai anh em thánh nhân ở Moravia đã đi vào chỗ tận tuyệt, các môn đệ của hai ngài phải phân tán khắp nơi. Nhưng sự trục xuất ấy đã có ảnh hưởng tốt đẹp trong việc phổ biến các công trình về phụng vụ, về tâm linh và văn hóa của hai anh em thánh nhân đến các vùng Bulgaria, Bohemia và nam Ba Lan.

Là quan thầy của Moravia, và được đặc biệt sùng kính bởi người Công Giáo Czech, Slovak, Croatia, Chính Thống Giáo Serb và người Bulgaria, Thánh Cyril và Methodius thật xứng đáng là người bảo vệ sự hiệp nhất Ðông và Tây, là điều được mọi người khao khát từ lâu.

Lời Bàn

Thánh thiện có nghĩa dùng tình yêu Thiên Chúa để đối xử với thói đời: đời sống con người lúc nào cũng vậy, luôn chằng chịt những vấn đề chính trị và văn hóa, sự mỹ miều cũng như sự xấu xa, sự ích kỷ cũng như sự thánh thiện. Với Thánh Cyril và Methodius, hầu như thập giá hàng ngày của các ngài là phải đương đầu với những khó khăn giống như của chúng ta ngày nay: vấn đề ngôn ngữ trong phụng vụ. Các ngài là thánh không phải vì đã đưa phụng vụ vào tiếng Slav, nhưng vì các ngài đã thi hành điều ấy với sự can đảm và khiêm tốn của Ðức Kitô.

Lời Trích

“Ngay cả trong phụng vụ, Giáo Hội không muốn áp đặt một sự đồng nhất cứng rắn nào trong các vấn đề không liên hệ đến đức tin hay không có lợi cho toàn thể cộng đoàn. Ðúng hơn, Giáo Hội tôn trọng và khuyến khích những tinh hoa và những đặc tính riêng của các chủng tộc và dòng giống… Miễn sao sự hợp nhất cốt yếu của nghi lễ Rôma vẫn được duy trì, việc tu chỉnh các sách phụng vụ phải được phép thay đổi và thích nghi với các tổ chức khác nhau, sự sùng bái và các dân tộc khác nhau, nhất là trong xứ truyền giáo” (Hiến Chế về Phụng Vụ, 37, 38).



14/02/2024

  14 Tháng Hai

  Thánh Valentine
(c. 269)

    Người ta nghĩ rằng Thánh Valentine đã từng là linh mục ở Rôma cũng như là một y sĩ. Vì không chịu từ bỏ đức tin, ngài được tử đạo vào ngày 14 tháng Hai. Chúng ta không biết gì nhiều về ngài, nhưng ngay vào khoảng năm 350, một nhà thờ đã được xây cất nơi ngài tử đạo.

    Truyền thuyết nói rằng ngài là một linh mục thánh thiện đã cùng với Thánh Marius giúp đỡ các vị tử đạo trong thời Claudius II. Ngài bị bắt, và bị gửi cho tổng trấn Rôma xét xử. Sau khi dụ dỗ mọi cách nhưng đều vô hiệu, quan tổng trấn đã ra lệnh cho lính dùng gậy đánh đập ngài, sau đó đưa đi chém đầu vào ngày 14 tháng Hai, khoảng năm 269. Người ta nói rằng Ðức Giáo Hoàng Julius I đã cho xây một nhà thờ gần Ponte Mole để kính nhớ ngài.

    Nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc việc cử hành ngày Valentine. Một số cho rằng người Rôma có một tập tục vào giữa tháng Hai, trong ngày ấy các con trai tô điểm tên các cô con gái để tỏ lòng tôn kính nữ thần dâm dục là Februata Juno.

Các tu sĩ thời ấy muốn dẹp bỏ tập tục này nên đã thay thế bằng tên các thánh tỉ như Thánh Valentine. Một số khác cho rằng thói quen gửi thiệp Valentine vào ngày 14 tháng Hai là vì người tin tin rằng các con chim bắt đầu sống thành cặp vào ngày này, là ngày Thánh Valentine bị chém đầu. Dường như chắc chắn hơn cả là vào năm 1477, người Anh thường liên kết các đôi uyên ương với ngày lễ Thánh Valentine, vì vào ngày này, 14 tháng Hai, “mọi chim đực đi tìm chim mái.” Tục lệ này trở thành thói quen cho các đôi trai gái viết thư tình cho nhau vào ngày Valentine. Và ngày nay, các cánh thiệp, quà cáp và thư từ trao cho nhau là một phần của việc cử hành Ngày Valentine.



   15/02/2024

   15 Tháng Hai

    Thánh Claude de la Combière
(1641- 1682)

    Thánh Claude sinh năm 1641 gần Lyons, nước Pháp, trong một gia đình đạo đức, giầu có. Ngài theo học trường của các cha dòng Tên về âm thanh và nghệ thuật.

    Sau đó Claude vào trường đệ tử dòng Tên ở Avignon, là nơi ngài học xong triết học và bắt đầu dạy về nhân văn. Trong thời gian ngài dạy học ở Avignon là khi đạo quân của Louis XIV chiếm đóng, dù đó là nơi đức giáo hoàng cư ngụ. Khi hòa bình trở lại, thành phố Avignon cử mừng lễ Thánh Phanxicô Sales; mặc dù chưa được thụ phong linh mục, Claude là một trong những người được yêu cầu giảng thuyết. Ðể hoàn tất chương trình thần học ngài được gửi sang Balê là trung tâm văn hóa của nước Pháp, ở đó ngài được chọn làm thầy giáo tư cho các con của một bộ trưởng Pháp, là ông Colbert. Nhưng trong một bài viết, ông Colbert có những lời châm biếm tôn giáo mà Cha Claude không tán thành với ông bộ trưởng, do đó ngài bị gửi trả về Avignon và được bổ nhiệm việc thuyết giảng ở một nhà thờ thuộc trường đại học.

    Trong các bài giảng, ngài thường tố cáo những sai lầm của lạc thuyết Jansen (1) mà ngài thấy đầy dẫy ở Balê. Cha Claude bài trừ tà thuyết bằng cách giảng dạy về việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Trong một cuộc tĩnh tâm ngài thề tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu.

    Hai tháng sau khi thề hứa, ngài được bổ nhiệm làm bề trên cho một trụ sở nhỏ của dòng Tên ở Paray. Chính ở đây mà ngài gặp Sơ Margaret Mary Alacoque (2), và là cha giải tội cho sơ và nhấn mạnh đến việc sùng kính Thánh Tâm Chúa.

    Sau đó Cha Claude được sai đến nước Anh với công việc giải tội cho Nữ Công Tước của York. Ngài rao giảng không những bằng lời nói mà còn bằng hành động, và đã đưa nhiều người Tin Lành trở lại đạo. Trong thời gian ở đây, những chống đối người Công Giáo ngày càng gia tăng. Có tiếng đồn cho rằng người Công Giáo âm mưu giết vua để tái lập đạo Công Giáo tại Anh. Cha Claude bị bắt và bị cầm tù về tội tham dự vào âm mưu này trước khi thành công trong việc hoán cải nhà vua. Chính nhờ vua Louis XIV can thiệp mà Cha Claude không bị xử tử.

    Cha Claude bị trục xuất, nhưng thời gian tù đầy đã ảnh hưởng tệ hại đến sức khỏe của ngài. Theo lời khuyên của Sơ Margaret Mary, ngài trở về Paray và từ trần tại đây năm 1682. Một ngày sau khi ngài chết, Sơ Margaret Mary được thị kiến siêu nhiên, đảm bảo rằng Cha Claude La Colombiere không cần được cầu nguyện, vì ngài đã ở trên thiên đàng.

    Cha Claude được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh ngày 31 tháng Năm 1992.

    (1) Cornelius Jansen – Giám Mục của Yprés – chủ trương rằng bản tính loài người quá hư hỏng vì tội nguyên tổ nên không có khả năng chống lại sự cám dỗ, không xứng đáng được rước lễ thường xuyên và Jansen chống lại sự thờ kính nhân tính của Chúa Giêsu được thể hiện qua việc sùng kính Thánh Tâm.

    (2) Thánh Margaret Mary Alacoque là người đã được Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần và sứ điệp đặc biệt là sùng kính Thánh Tâm Chúa. Thánh nữ được Chúa Giêsu gọi là “Người môn đệ yêu dấu của Thánh Tâm Ta.”



    Thánh Joan ở Valois
(1464 – 1505)

    Thánh Joan là cô con gái thứ hai của Vua Louis XI nước Pháp. Khi mới sinh được hai tháng thì ngài đã được hứa gả cho Công Tước Louis ở Orleans, và hôn nhân của họ xảy ra vào năm 1476 khi ngài mới 12 tuổi. Dĩ nhiên đó là một hôn nhân không có giá trị, và Công Tước Louis lấy ngài cũng chỉ vì lo sợ cho tương lai không biết sẽ ra sao nếu không tuân lệnh của nhà vua.

    Joan là một thiếu nữ tật nguyền, ngài bị gù lưng, đi khập khiễng và bị rỗ. Mặc dù ngài phải đau khổ vì tàn tật, nhưng ngài đã kiên nhẫn chấp nhận sự bất lực ấy và dành nhiều thời giờ để cầu nguyện và suy niệm.

    Khi chồng của ngài lên ngôi vua, Louis XII, hành động đầu tiên của ông là xin đức giáo hoàng tuyên bố hôn nhân ấy vô hiệu và chưa thành. Do đó, Joan không được làm hoàng hậu của nước Pháp; ngài được ban cho tước hiệu Nữ Công Tước của Berry. Ðối với Joan đó là sự khuây khỏa khôn cùng và ngài đã đến Bouges. Ở đây ngài sống cuộc đời ẩn dật để cầu nguyện, và vào năm 1501, theo lời khuyên của vị linh hướng là Cha Gilbert Nicolas dòng Phanxicô, ngài sáng lập dòng nữ tu chiêm niệm – Nữ Tu Dòng Truyền Tin mà quy luật chính yếu là bắt chước các nhân đức của Ðức Maria như được kể trong Phúc Âm.

    Thánh Joan từ trần ngày 4 tháng Hai năm 1505 khi 41 tuổi. Ngài được phong thánh vào năm 1950.



16/02/2024

16 Tháng Hai
    Thánh Gilbert ở Sempringham
    (1083 – 1189)

    Thánh Gilbert sinh ở Sempringham, Anh Quốc, con của hiệp sĩ Jocelin người Norman nổi tiếng giầu có. Nhưng ngài lại theo đuổi một con đường khác hẳn với những gì mà gia đình ngài dành sẵn. Ðược gửi sang Pháp để tiếp tục học lên cao, nhưng ngài lại quyết định theo đuổi ơn gọi tu trì.

    Ngài trở về Anh dù chưa là linh mục, và được thừa hưởng nhiều bất động sản của cha ngài để lại. Nhưng Gilbert không muốn một đời sống thoải mái như bất cứ lúc nào ngài cũng có thể. Thay vào đó, ngài sống một cuộc đời đơn giản tại một giáo xứ, và chia sẻ của cải với người nghèo bao nhiêu có thể. Sau khi được thụ phong linh mục, ngài phục vụ ở Sempringham.

    Trong giáo xứ có bảy cô thanh nữ muốn sống đời tu trì và họ đã đến xin Cha Gilbert giúp đỡ. Ngài cho xây một căn nhà cạnh nhà thờ. Ở đó họ sống khắc khổ, nhưng lại thu hút nhiều người đến với họ; dần dà số nam nữ giáo dân đến giúp đỡ họ ngày càng đông. Sau khi một vài cơ sở được thành hình, Cha Gilbert đến Citaux để xin các tu sĩ ở đây tiếp tục trông coi Cộng Ðoàn. Khi các tu sĩ Xitô từ chối việc dẫn dắt nhóm phụ nữ này, với sự chấp thuận của Ðức Giáo Hoàng Eugene III, Cha Gilbert tiếp tục trông coi Cộng Ðoàn với quy luật riêng mà ngài là bề trên. Cộng đoàn được biết đến dưới tên Dòng Gilbertin, và là tu hội duy nhất được thành lập ở Anh trong thời Trung Cổ. Trước khi tu hội phải giải tán vì Vua Henri VIII ngăn cấm tất cả các tu viện Công Giáo ở Anh, Dòng Gilbertin có đến hai mươi sáu tu viện.

    Quy luật của dòng rất nghiêm nhặt, nổi tiếng khắc khổ và lưu tâm đến người nghèo. Một thói quen đặc biệt dần dà xuất hiện trong các tu viện của Dòng Gilbertin được gọi là “đĩa của Chúa Giêsu.” Trong đĩa đặc biệt ấy là các phần chia sẻ thức ăn của mỗi tu sĩ và sau đó họ chia sẻ thức ăn trong đĩa ấy cho người nghèo, nói lên sự lưu tâm đặc biệt của Cha Gilbert đối với những người kém may mắn.

    Trong suốt cuộc đời, Cha Gilbert sống thật đơn giản, ăn rất ít và dành nhiều thời giờ ban đêm để cầu nguyện. Bất kể những khắc khổ của cuộc sống, ngài từ trần khi trên 100 tuổi. Ngài được phong thánh năm 1202.



17/02/2024

    17 Tháng Hai
    Bảy Vị Sáng Lập Dòng Tôi Tớ Ðức Mẹ
(thế kỷ 13)

    Có thể nào bạn tưởng tượng được có bảy người nổi tiếng của thành phố Saigon hoặc Hoa Thịnh Ðốn cùng tụ nhau lại, từ giã gia đình sự nghiệp và sống cô độc trong một cuộc đời tận hiến cho Thiên Chúa không? Ðiều đó đã xảy ra trong thế kỷ XIII, ở thành phố Florence phồn thịnh và văn vật. Lúc ấy, thành phố này tan nát vì tranh chấp chính trị cũng như vì lạc giáo Cathari (trong những điều lầm lạc, họ cho rằng ma quỷ là chúa đối nghịch và Ðức Giêsu chỉ là một thiên thần). Ðời sống luân lý thời ấy thật thấp và tôn giáo dường như không có ý nghĩa gì.

    Năm 1240, bảy người quý phái của Florence cùng quyết định ra khỏi thành phố đến một nơi cô quạnh để cầu nguyện và phục vụ Thiên Chúa. Sự khó khăn đầu tiên của họ là việc cấp dưỡng cho thân nhân, vì hai người vẫn còn lập gia đình và hai người nữa goá vợ.

    Mục đích của họ là sống ăn năn đền tội và cầu nguyện, nhưng không bao lâu họ bị quấy rầy bởi những người hiếu kỳ đến từ Florence. Sau đó họ di chuyển đến một nơi vắng vẻ khác là sườn núi Senario.

    Năm 1244, dưới sự linh hướng của Cha Phêrô ở Verona, O.P. (sau này được phong thánh), nhóm này theo thói quen đạo đức tương tự như của các cha Ða Minh, sống dưới quy luật của Thánh Augustine và lấy tên là Tôi Tớ Ðức Maria. Tu hội này có hình thức tổ chức giống như các tu sĩ khất thực hơn là các đan viện thời xưa.

    Năm 1852, các thành viên của tu hội từ Áo đến Hoa Kỳ và định cư ở Nữu Ước, sau đó ở Philadelphia. Hai tỉnh dòng Hoa Kỳ được phát triển từ một tổ chức nhỏ bé của Cha Austin Morini được thành lập ở Wisconsin năm 1870.

    Các thành viên của tu hội phối hợp giữa đời sống đan viện và sự hoạt động tích cực. Trong đan viện, họ sống đời cầu nguyện, làm việc và giữ thinh lặng nhưng trong công tác tông đồ họ tham dự các công việc của giáo xứ, dạy học, rao giảng và các sứ vụ khác.

    Lời Bàn

    Thời gian mà bảy vị sáng lập dòng Tôi Tớ Ðức Mẹ sinh sống cũng rất giống như hoàn cảnh mà chúng ta đang sống hiện nay. Ðó là “thời gian tốt nhất và xấu nhất.” Có lẽ nhiều người cảm thấy như bị lôi cuốn đến một cuộc sống phi văn hóa, ngay cả phi tôn giáo. Trong một phương cách mới hơn và khẩn thiết hơn, tất cả chúng ta đều phải đối diện với những thử thách của một cuộc đời mà tâm điểm là Ðức Kitô.

    Lời Trích

    “Mọi tu hội hãy loan truyền tin mừng của Ðức Kitô trên toàn thế giới bằng đức tin chính trực, bằng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, bằng sự thành tâm với Thánh Giá và qua niềm hy vọng vào sự vinh hiển tương lai… Do đó, với lời cầu bầu mạnh mẽ của Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, mà ‘cuộc đời ngài là quy luật cho mọi đời sống,’ các cộng đồng tôn giáo sẽ cảm nghiệm sự gia tăng về số lượng, và sẽ gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp mà từ đó dẫn đến sự cứu độ” (Sắc Lệnh về Ðời Sống Tu Trì, 25).


19/02/2024

    19 Tháng Hai
    Thánh Conrad ở Piacenza
(1290 – 1350)

    Sinh trong một gia đình giầu có thuộc miền bắc nước Ý, Conrad kết hôn với Euphrosyne, con gái của một người quý phái.

    Một ngày kia, trong khi đi săn Conrad ra lệnh đốt một số bụi rậm để lùa thú ra ngoài. Lửa cháy lan ra cánh đồng kế cận và thiêu hủy cả một cánh rừng. Một nông dân vô tội bị cầm tù, bị đánh đập ép phải nhận tội và bị kết án tử hình. Tuy nhiên Conrad đã ra thú tội, cứu mạng người nông dân ấy và ông phải bồi thường thiệt hại.

    Sau biến cố ấy không lâu, Conrad và vợ đồng ý ly thân: bà gia nhập tu viện Dòng Thánh Clara Nghèo Hèn và ông đến với một nhóm người sống ẩn dật theo quy luật Dòng Ba Phanxicô. Tuy nhiên, không bao lâu, sự thánh thiện nổi tiếng của ông lan tràn. Vì sự cô quạnh bị khuấy động bởi các khách thăm viếng, Conrad di chuyển đến một nơi hoang vắng ở Sicily và ông sống ẩn dật ở đây trong 36 năm, cầu nguyện cho chính mình cũng như cho thế gian.

    Sự cầu nguyện và ăn năn đền tội là cách ông đáp trả với những cám dỗ cản trở ông nên thánh. Ông từ trần khi còn quỳ gối trước tượng thánh giá. Ông được phong thánh năm 1625.

    Lời Bàn

    Thánh Phanxicô Assisi vừa quý trọng sự chiêm niệm vừa yêu quý đời sống rao giảng; giai đoạn cầu nguyện mãnh liệt là để nuôi dưỡng sức mạnh rao giảng. Tuy nhiên, một số môn đệ đầu tiên của ngài cảm thấy được mời gọi đến đời sống chiêm niệm, và ngài chấp nhận điều đó. Mặc dù đời sống Thánh Conrad ở Piacenza không phải là một quy tắc trong Giáo Hội, nhưng ngài và các vị chiêm niệm khác nhắc nhở chúng ta về sự vĩ đại của Thiên Chúa và niềm vui của thiên đàng.

    Lời Trích

    Trong Huấn Thị về Ðời Sống Chiêm Niệm, Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI có viết như sau:”Rút lui vào nơi vắng vẻ là để người Kitô kết hợp chính mình một cách mật thiết với sự thống khổ của Ðức Kitô, và trong một phương cách đặc biệt, giúp họ chia sẻ mầu nhiệm vượt qua và hành trình của Ðức Kitô từ trần thế đến quê trời” (#1).



  

20/02/2024

20 Tháng Hai
    Chân Phước Jacinta and Francisco Marto
(1910-1920; 1908-1919)

    Trong quãng thời gian từ 13 tháng Năm đến 13 tháng Mười 1917, ba trẻ chăn chiên người Bồ Ðào Nha ở Aljustrel đã được thấy Ðức Bà hiện ra ở Cova da Iria, gần Fatima, một thành phố cách thủ đô Lisbon 110 dặm về phía bắc. Vào lúc đó, Âu Châu đang can dự vào một cuộc chiến đẫm máu. Chính Bồ Ðào Nha, sau khi lật đổ chế độ quân chủ vào năm 1910, cũng đang trong sự rối loạn chính trị; sau đó không lâu nhà cầm quyền giải tán các tổ chức tôn giáo.

    Từ trái sang phải: Jacinta Marto, Lucia dos Santos, Francisco Marto

Trong lần hiện ra đầu tiên, Ðức Maria yêu cầu các trẻ trở lại nơi này vào ngày mười ba mỗi tháng trong sáu tháng kế tiếp. Ngài cũng yêu cầu các trẻ học hành để biết đọc biết viết, và lần chuỗi mai khôi “để thế giới được hòa bình và chấm dứt chiến tranh.” Các trẻ cũng được khuyên hãy cầu nguyện cho những người tội lỗi và xin cho nước Nga được hoán cải, mà lúc bấy giờ Nga Hoàng Nicholas II vừa mới bị lật đổ và sau đó không lâu nước Nga rơi vào sự thống trị của chế độ cộng sản. Vào lần thị kiến sau cùng, 13-10-1917, có đến 90,000 người tụ tập tại Cova da Iria.

    Chưa đầy hai năm sau, Francisco từ trần vì bệnh cúm ở ngay quê nhà. Em được chôn cất trong nghĩa trang giáo xứ và sau đó được cải táng về vương cung thánh đường Fatima vào năm 1952. Jacinta cũng chết vì bệnh cúm ở Lisbon sau khi dâng hiến sự đau khổ của mình để hoán cải người tội lỗi, để xin bình an cho thế giới và cho Ðức Thánh Cha. Cô được cải táng về vương cung thánh đường Fatima năm 1951. Người bà con với hai em là Lucia dos Santos, đã trở thành một nữ tu dòng Camêlô và hiện còn sống khi Jacinta và Francisco được phong chân phước vào năm 2000. Hàng năm, có đến 20 triệu người đến viếng đền Ðức Mẹ Fatima ở Bồ Ðào Nha.

    Lời Bàn

    Giáo Hội luôn luôn rất thận trọng khi phải chứng thực các việc hiện ra, nhưng Giáo Hội đã chứng kiến kết quả tốt đẹp của sứ điệp Ðức Bà Fatima khi người ta thay đổi đời sống. Cầu nguyện cho kẻ tội lỗi, tận hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Ðức Maria và lần chuỗi mai khôi–tất cả những điều này đã củng cố Tin Mừng mà Ðức Giêsu rao giảng.

    Lời Trích

    Trong bài giảng lễ phong chân phước, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc lại lời của Jacinta nói với Francisco ngay trước khi em từ trần,”Anh cho em gửi lời chào Chúa và Ðức Mẹ, và nói với các Ngài rằng em sẵn sàng chịu đựng mọi sự mà các Ngài muốn để hoán cải kẻ tội lỗi.”



21/02/2024

    21 Tháng Hai
    Thánh Phêrô Damian
(1007 – 1072)

    Có lẽ vì là trẻ mồ côi và bị đối xử thật tệ hại khi còn nhỏ nên Thánh Phêrô Damian thật tốt với người nghèo. Trong bữa ăn, lúc nào cũng có một hay hai người nghèo ăn chung với ngài, và đích thân ngài lo lắng cho nhu cầu của họ.

    Ngài sinh ở Ravenna, mồ côi cha mẹ khi còn nhỏ và sống với người anh ruột nhưng bị đối xử như người đầy tớ. Khi mới lớn một chút, ngài đã bị sai đi chăn heo. Một người anh khác, là giáo trưởng ở Ravena, thấy thương hại chú em bơ vơ nên đem ngài về nuôi nấng cho ăn học tử tế. Có lẽ vì nhớ ơn dưỡng dục của người anh mà Phêrô đã lấy tên người anh, là Damian, thành tên của mình.

    Phêrô là một học sinh có năng khiếu và sau đó trở thành một giáo sư nổi tiếng. Trong thời gian này, Phêrô cố làm quen với sự chay tịnh, sự cầu nguyện và ngài mặc áo nhặm bên trong áo thường để chống với các cám dỗ của lạc thú và mưu chước ma quỷ.

    Sau một thời gian, ngài quyết tâm từ bỏ thế gian để sống đời ẩn tu với các đan sĩ Biển Ðức thuộc nhánh cải cách của Thánh Rômuanđô ở Fonte Avellana. Các đan sĩ thường sống hai người một trong một cái am cách xa nhau, để cầu nguyện và đọc sách thiêng liêng, với cuộc sống rất khắc khổ. Vì quá hăng say trong sự cầu nguyện và ngủ quá ít nên không bao lâu Phêrô bị bệnh mất ngủ trầm trọng. Ngài phải thận trọng kềm chế và săn sóc chính mình. Vì lý do đó, ngài dành nhiều thời giờ để nghiên cứu Kinh Thánh, và trở nên một thi sĩ sáng tác thơ đạo cũng nổi tiếng như trong văn chương đời trước đây.

    Do một quyết định của toàn thể các đan sĩ, ngài phải chịu trách nhiệm lãnh đạo Cộng Ðoàn khi vị bề trên qua đời. Do đó, sau khi vị đan viện trưởng từ trần khoảng năm 1043, Phêrô đã dẫn dắt gia đình thánh thiện này với sự khôn ngoan và đạo đức. Ngài cũng thành lập thêm năm đan viện khác. Ngài duy trì tinh thần cô độc, bác ái và khiêm nhường. Nhiều vị đan sĩ dưới sự dẫn dắt của ngài là các ngôi sao sáng của Giáo Hội, kể cả Thánh Ðaminh Loricatus, Thánh Gioan ở Lodi là người kế vị ngài trong chức vụ đan viện trưởng ở Holy Cross.

    Trong nhiều năm, Thánh Phêrô Damian thường giúp các Giáo Hoàng trong công việc hòa giải giữa các tu hội kình chống nhau, hoặc giữa giáo sĩ, viên chức chính phủ và Tòa Thánh. Năm 1057, Ðức Giáo Hoàng Stephanô IX thuyết phục ngài từ bỏ đời ẩn dật và đặt ngài làm Giám Mục-Hồng Y của Ostia.

    Ngài tích cực tẩy trừ nạn buôn bán chức vụ trong Giáo Hội, khuyến khích các linh mục sống độc thân, và thúc giục các linh mục triều sống thành cộng đoàn, giữ chương trình cầu nguyện. Ngài ao ước phục hồi tinh thần kỷ luật nguyên thủy của các tu sĩ và linh mục, cảnh cáo họ về việc di chuyển không cần thiết, vi phạm đức khó nghèo và sống quá thoải mái. Ngài viết thư khiển trách Ðức Giám Mục Florence về việc chơi cờ, và Ðức Giám Mục Besancon về việc để giáo sĩ ngồi khi đọc thánh vịnh trong Kinh Nhật Tụng.

    Ngài viết rất nhiều thư. Khoảng 170 lá hiện vẫn còn. Chúng ta cũng còn 53 bài giảng của ngài và bảy tiểu sử ngài viết. Ngài thích viết về gương mẫu và chuyện thật hơn là lý thuyết. Các bản văn phụng vụ của ngài cho thấy ngài có phong cách của một nhà văn.

    Ngài thường xin các giáo hoàng cho ngài từ chức Giám Mục-Hồng Y của Osia, và sau cùng Ðức Alexander II đồng ý với điều kiện là bất cứ khi nào cần ngài sẽ sẵn sàng làm việc trở lại. Khi trở lại công việc ở Ravenna, ngài bị sốt nặng. Ngài từ trần ngày 22 tháng Hai 1072 khi các đan sĩ đang vây quanh và đọc kinh Nhật Tụng.

    Năm 1828 ngài được tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh.   

Lời Bàn

    Thánh Phêrô Damian là một người cải cách, và nếu ngài sống trong thời nay chắc chắn ngài sẽ thúc đẩy sự canh tân theo tinh thần Công Ðồng Vatican II. Ngài sẽ hoan nghênh việc nhấn mạnh đến cầu nguyện được tỏ lộ qua số buổi cầu nguyện ngày càng gia tăng của các linh mục, tu sĩ và giáo dân cũng như việc thành lập các nhà cầu nguyện của nhiều cộng đoàn tu sĩ ngày nay.

    Lời Trích

    “… Chúng ta hãy trung tín trao truyền lại cho thế hệ mai sau các gương mẫu nhân đức mà chúng ta đã lãnh nhận từ cha ông” (Thánh Phêrô Damian).



22/02/2024

22 Tháng Hai
Ngai Tòa Thánh Phêrô Tông Ðồ

Hôm nay chúng ta tưởng nhớ việc Ðức Kitô chọn Phêrô là người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.

Sau một “cuối tuần mất mát” đầy đau khổ, hồ nghi và dằn vặt sau khi Ðức Kitô bị đóng đinh và đem đi chôn, Phêrô đã được nghe Tin Mừng. Thiên thần ở ngôi mộ nói với bà Maria Mađalêna, “Chúa đã sống lại! Hãy đi nói với các môn đệ và Phêrô.” Gioan kể lại khi ngài và Phêrô chạy đến mộ, vị tông đồ trẻ đi nhanh hơn tông đồ lớn tuổi kia, nhưng ngài đứng đợi ở ngoài.

Khi Phêrô bước vào, thấy các khăn liệm ở dưới đất, khăn che mặt được gói lại để ở đúng vị trí của nó. Gioan trông thấy và tin. Nhưng ngài viết thêm: “… Họ không hiểu rằng theo kinh thánh, Ngài phải sống lại từ cõi chết” (Gioan 20:9). Họ về nhà. Ðầu óc họ như nổ tung với một khám phá mới, điều bất khả đã trở thành hiện thực. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn nhà khóa kín. Ngài nói, “Bình an cho anh em,” và họ quá đỗi vui mừng (Gioan 20:21b).

Và biến cố trong ngày Ngũ Tuần đã giúp Phêrô cảm nhận được Ðức Kitô phục sinh một cách trọn vẹn. “… Tất cả đều tràn đầy Thánh Thần” (TVCÐ 2:4a) và họ bắt đầu rao giảng bằng các thứ tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho.

Chỉ khi ấy Phêrô mới chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho ngài: “… Một khi anh trở lại, hãy củng cố các anh em” (Luca 22:32) Từ lúc đó, ngài trở nên phát ngôn viên cho nhóm Mười Hai về những gì họ được cảm nghiệm qua Thánh Thần — trước nhà cầm quyền muốn chặn đứng sự rao giảng, trước thượng hội đồng Giêrusalem, trước cộng đoàn về vấn đề của Ananias và Sapphira. Ngài là người đầu tiên rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại. Sức mạnh chữa lành của Ðức Kitô ở trong Phêrô được chứng tỏ: cho kẻ chết sống lại, chữa người ăn xin tàn tật. Dân chúng khiêng bệnh nhân ra đường phố để khi Phêrô đi ngang qua, bóng của ngài có thể chữa họ lành.

Ngay cả một vị thánh cũng gặp khó khăn của cuộc đời Kitô Hữu. Khi Phêrô không còn ăn uống với Dân Ngoại tòng giáo vì ngài tế nhị không muốn tổn thương đến người Kitô gốc Do Thái, Phaolô viết, “… Tôi chống đối ông ấy ra mặt vì rõ ràng là ông ấy sai… Các ông ấy không đi đúng với chân lý của phúc âm…” (Galat 2:11b, 14a).

Trong đoạn cuối Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói với Phêrô, “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết, khi anh còn trẻ, anh muốn mặc quần áo nào và muốn đi đâu tùy ý; nhưng khi anh lớn tuổi, anh sẽ phải giang tay ra, và người khác sẽ mặc áo cho anh và dẫn anh đến nơi anh không muốn” (Gioan 21:18). Chúa Giêsu tiên đoán về cái chết mà Phêrô phải chịu để vinh danh Thiên Chúa. Trong thời gian cai trị của Nero, trên Ðồi Vatican ở Rôma, Phêrô đã vinh danh Chúa Giêsu với sự tử đạo, có lẽ cùng với nhiều Kitô Hữu khác.

Lời Trích

Trong Thơ Thứ Nhất, Thánh Phêrô diễn tả ơn gọi của người tín hữu Kitô:”Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để lãnh nhận niềm hy vọng sống động nhờ Ðức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết…” (1 Phêrô 1:3a).



23/02/2024

   23 Tháng Hai
    Thánh Polycarp
(c. 156)

    Là môn đệ của Thánh Gioan Tông Ðồ và là bạn của Thánh Ignatiô ở Antioch, Thánh Polycarp, Giám Mục của Smyrna (bây giờ là Izmir, Thổ Nhĩ Kỳ), là một vị lãnh đạo đáng kính của Kitô Giáo trong tiền bán thế kỷ thứ hai.

    Tuy nhiên các vị lãnh đạo Giáo Hội thuộc thế hệ thứ hai đã gặp những thử thách mà thế hệ trước không đề cập đến. Họ phải làm gì khi thế hệ chứng nhân thứ nhất ấy không còn nữa? Lời dạy dỗ xác thực của Chúa Giêsu phải truyền lại như thế nào? Phải trả lời thế nào với các câu hỏi chưa từng có?

    Khi các tông đồ không còn ở trần gian nữa, các lạc thuyết bắt đầu xuất hiện ngụy trang chính giáo, sự bách hại lại mạnh mẽ và bắt đầu xuất hiện các tranh chấp về vấn đề phụng vụ mà Ðức Giêsu không bao giờ nói đến.

    Polycarp, một người thánh thiện và là giám mục của Smyrna, chỉ thấy có một câu trả lời – trung thành với đời sống Ðức Giêsu và bắt chước đời sống ấy. Thánh Ignatiô nói với Thánh Polycarp “linh đạo của anh đặt nền móng nơi Thiên Chúa như trên một tảng đá không thể nào lay chuyển nổi.”

    Khi đối diện với lạc giáo, Thánh Polycarp có “bộ mặt bộc trực” đến nỗi Thánh Ignatiô phải thán phục, vì ngài đã bắt chước cách Ðức Giêsu trả lời người Pharisêu. Marcion, người lãnh đạo lạc thuyết nhị nguyên (*), khi đối chất với Ðức Polycarp đã yêu cầu ngài thừa nhận họ, “Polycarp, hãy thừa nhận chúng tôi.” Ðức Polycarp trả lời, “Tôi thừa nhận ngài, phải, tôi thừa nhận ngài là đứa con của Satan.”

    Trái lại khi đối diện với các bất đồng của Kitô Hữu, ngài lại rất khoan dung và tôn trọng. Một trong những tương tranh thời ấy là việc cử hành lễ Phục Sinh. Ðông Phương, là xuất xứ của Thánh Polycarp, cử hành mầu nhiệm Vượt Qua như sự Thương Khó của Ðức Kitô tiếp theo sau bằng một Thánh Lễ vào ngày kế tiếp. Tây Phương cử hành lễ Phục Sinh vào ngày Chúa Nhật sau tuần lễ Vượt Qua. Khi Thánh Polycarp đến Rôma để thảo luận về vấn đề này với Ðức Giáo Hoàng Anicetus, họ bất đồng ý kiến. Nhưng các ngài cũng không thấy sự khác biệt trong đức tin Kitô Giáo. Và Ðức Anicetus đã yêu cầu Thánh Polycarp cử hành Thánh Lễ ngay trong nhà nguyện của đức giáo hoàng.

    Thánh Polycarp đối diện với sự bách hại cũng như Ðức Kitô đã làm. Chính giáo đoàn của ngài phải thán phục ngài vì đã theo sát “gương phúc âm” – không tìm cách để tử đạo như một số người đã làm, nhưng trốn tránh sự bách hại cho đến khi thánh ý Chúa được thể hiện như Ðức Giêsu Kitô đã làm. Họ coi đó là “một dấu chỉ tình yêu nói lên sự khao khát không muốn chỉ cứu chuộc có một mình, nhưng còn cứu chuộc tất cả anh chị em Kitô Hữu.”

    Trong thời kỳ đẫm máu tử đạo Kitô Hữu trong đấu trường, dân chúng trở nên điên cuồng đòi hỏi phải tìm bắt Thánh Polycarp, vì ngài nổi tiếng thánh thiện. Thánh Polycarp thật điềm tĩnh nhưng giáo dân thúc giục ngài đi trốn trong một nông trại gần thành phố. Quân lính tìm ra ngài sau khi tra khảo hai đứa bé. Ngài thết đãi họ ăn và xin họ để ngài cầu nguyện trước khi điệu về đấu trường.

    Thấy đức tin vững vàng không lay chuyển của Thánh Polycarp, quan thống đốc ra lệnh thiêu sống, và khi quân lính châm lửa, nhiều người chứng kể lại họ được nhìn thấy một phép lạ. Lửa cháy thành một vòng cung chung quanh thánh nhân, bao bọc ngài như các cánh buồm, và thay vì bị đốt cháy, ngài lại rực sáng như vàng đang chảy trong lò lửa. Khi quân lính thấy ngài không hề hấn gì, chúng đã lấy dao đâm ngài. Máu ngài chảy ra đã dập tắt ngọn lửa.

    Quan thống đốc ra lệnh đốt xác thánh nhân mà không để giáo dân lấy xác, vì ông sợ họ sẽ thờ Thánh Polycarp mà không thờ tà thần của người Rôma. “Chứng từ” tử đạo của Thánh Polycarp là chứng từ được ghi nhận một cách xác thực về sự tử đạo của người tín hữu Kitô ngay từ thuở ban đầu. Ngài chết vào khoảng năm 156.

    Trong nhiều lá thư của Thánh Polycarp, chỉ còn một lá ngài viết cho Giáo Hội Philippi, Macedonia là còn giữ được cho đến ngày nay.

    Lời Bàn

    Thánh Polycarp được công nhận là vị lãnh đạo Kitô Giáo bởi tất cả các Kitô Hữu thuộc Giáo Hội Tiểu Á – một thành trì đức tin vững mạnh và trung thành với Ðức Giêsu Kitô. Sức mạnh của ngài là bởi tín thác vào Thiên Chúa, ngay cả khi các biến động của đời sống mâu thuẫn với sự tin tưởng này. Sống giữa những người ngoại giáo và dưới chế độ đàn áp một tôn giáo mới, ngài đã chăn dẫn đàn chiên của ngài. Cũng như vị Mục Tử Tốt Lành, ngài đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên và gìn giữ họ khỏi bị bách hại thêm nữa. Sự tín thác vào Thiên Chúa của ngài được tóm lược trong câu nói trước khi chết:”Lạy Chúa Cha… Con ca tụng Ngài, vì đã giúp con xứng đáng cho đến ngày giờ này…” (Sổ Tử Ðạo, Chương 14).

    Lời Trích

    “Hãy vững vàng trong cách ăn ở và noi gương Chúa, ‘trung kiên trong đức tin, yêu thương anh chị em, đoàn kết trong chân lý,’ giúp đỡ lẫn nhau với sự dịu dàng của Chúa, đừng khinh miệt một ai” (Thánh Polycarp, Thư Gửi Tín Hữu Philippi).

    (*) Marcion chủ trương có hai Chúa. Một Chúa trong Cựu Ước thì khác với Chúa của Tân Ước, và Ðức Giêsu là Con của Thiên Chúa trong Tân Ước.



24/02/2024

    24 Tháng Hai
    Chân Phước Luca Belludi
(1200 – 1285)

    Năm 1220, khi Thánh Antôn rao giảng cho cư dân ở Padua thì một thanh niên thuộc dòng dõi quý tộc, là Luca Belludi, đã đến với thánh nhân và xin được theo nếp sống của những môn đệ Thánh Phanxicô. Thánh Antôn rất mến mộ tài năng, kiến thức của Luca và đích thân giới thiệu anh với Thánh Phanxicô, sau đó chính thánh nhân đã nhận anh vào dòng.

    Lúc ấy, Luca chỉ mới 20 tuổi, là bạn đồng hành của Thánh Antôn trong những công tác rao giảng, đã săn sóc thánh nhân vào những ngày cuối đời và sau khi Thánh Antôn từ trần, Luca đã thế chỗ của thánh nhân. Sau đó ngài được bổ nhiệm việc quản lý các tu sĩ Phanxicô ở Padua.

    Vào năm 1239, thành phố rơi vào tay quân thù. Những người quý tộc bị tử hình, thị trưởng và hội đồng thành phố bị dẹp bỏ, trường đại học ở Padua từ từ bị đóng cửa và việc xây cất nhà thờ để kính nhớ Thánh Antôn phải bỏ dở. Chính Luca bị trục xuất ra khỏi thành phố nhưng ngài bí mật trở về. Hàng đêm, ngài và thầy quản lý xuống mộ Thánh Antôn trong nguyện đường đang xây cất dở dang để cầu xin sự trợ giúp. Một đêm kia, có tiếng nói vang lên từ ngôi mộ, đảm bảo với các ngài là thành phố sẽ thoát khỏi tay bạo chúa hung dữ.

    Sau khi lời tiên đoán ấy thành sự thật, Luca được bầu làm bề trên tỉnh dòng và sau đó ngài hoàn tất vương cung thánh đường để kính nhớ Thánh Antôn, là thầy của ngài. Trong cuộc đời của Chân Phước Luca, ngài thành lập nhiều tu viện, và cũng như Thánh Antôn, ngài được ơn làm phép lạ. Sau khi từ trần, ngài được an nghỉ trong chính vương cung thánh đường mà ngài đã giúp hoàn tất và được tiếp tục sùng kính cho đến ngày nay.



25/02/2024

    25 Tháng Hai
    Chân Phước Sebastian ở Aparicio
(1502 – 1600)

    Những con đường và nhịp cầu mà Chân Phước Sebastian xây dựng thì nối liền nhiều chỗ thật xa cách. Nhịp cầu sau cùng ngài hoàn tất là giúp người ta nhận biết phẩm giá và cùng đích mà Thiên Chúa đã ban cho loài người.

    Cha mẹ của Sebastian là nông dân Tây Ban Nha. Vào năm 31 tuổi, ngài xuống tàu đi Mễ Tây Cơ, ở đây ngài làm việc đồng áng. Sau đó ngài xây đắp những con đường để thuận tiện cho việc trao đổi nông nghiệp và thương mãi. Con đường ngài xây từ Mexico City cho đến Zacatecas dài 466 dặm và phải mất 10 năm mới hoàn tất, và vừa phải khéo léo thương thuyết với những người thổ dân.

    Sau cùng, Sebastian là một điền chủ giàu có. Khi 60 tuổi ngài lập gia đình với một trinh nữ. Ðộng lực chính mà người trinh nữ kết hôn với ngài có lẽ là số gia tài kếch sù; phần ngài thì muốn giúp đỡ người con gái nghèo nàn không có của hồi môn ấy một cuộc đời xứng đáng. Khi người vợ thứ nhất qua đời, ngài lấy một trinh nữ thứ hai cũng vì lý do như trước; và người vợ thứ hai cũng chết sớm.

    Vào năm 72 tuổi, Sebastian phân phát tài sản cho người nghèo rồi gia nhập dòng Phanxicô với tư cách của một thầy trợ sĩ. Ðược giao cho công việc ẩm thực của tu viện rộng lớn ở Puebla de los Angeles (100 thành viên) nằm về phía nam của Mexico City, Thầy Sebastian đã chu toàn bổn phận đi khất thực trong 25 năm. Lòng bác ái của thầy đối với tất cả mọi người thật xứng với cái tên mà người ta đã đặt cho ngài, “Thiên Thần của Mễ Tây Cơ.”

    Thầy Sebastian được phong chân phước năm 1787 và là quan thầy của những người lữ hành.

    Lời Bàn

    Theo Quy Luật Thánh Phanxicô, các tu sĩ phải làm việc để có miếng ăn. Nhưng đôi khi công việc của họ không đủ cung cấp cho nhu cầu; thí dụ, họ chăm sóc người cùi là những người không có gì để đáp trả. Trong trường hợp ấy, các tu sĩ được phép đi xin, và luôn nhớ đến điều nhắc nhở của Thánh Phanxicô là hãy làm gương tốt để khuyến dụ dân chúng. Cuộc đời của Chân Phước Sebastian, dù tuổi già nhưng vẫn hăng say, chắc chắn đã đưa nhiều người đến gần Thiên Chúa hơn.

    Lời Trích

    Có lần Thánh Phanxicô nói với các môn sinh:”Giữa thế gian và tu sĩ có một giao kèo. Tu sĩ phải đem lại cho thế gian gương mẫu tốt lành; và thế gian phải cung ứng cho các nhu cầu của họ. Khi các tu sĩ hư hỏng đức tin và không còn làm gương tốt, thế gian sẽ rút tay lại như một sự khiển trách chính đáng” (2 Celano, #70).



26/02/2024

   26 Tháng Hai
    Thánh Apollonia
(c. 249)

    Cuộc bách hại Kitô Hữu đầu tiên ở Alexandria xảy ra trong triều đại Hoàng Ðế Philip. Nạn nhân đầu tiên bị người ngoại giáo tấn công là một cụ già tên Metrius, cụ bị tra tấn và sau đó bị ném đá cho đến chết. Người thứ hai từ chối không chịu thờ tà thần là một phụ nữ Kitô Hữu tên Quinta. Lời nói của bà đã làm đám đông tức giận và bà đã bị đánh đập bằng gậy gộc và ném đá.

    Thanh Apollonia Trong khi hầu hết Kitô Hữu rời bỏ thành phố, để lại mọi của cải thế gian thì một nữ phó tế tên là Apollonia bị bắt. Thánh Dionysius, Giám Mục Antiôkia, kể cho chúng ta biết, đám đông đã đánh đập Apollonia, và bẻ gãy mọi cái răng của ngài. Sau đó họ đốt một đám lửa thật lớn và đe dọa nếu ngài không chịu nguyền rủa Thiên Chúa thì họ sẽ ném ngài vào lửa. Ngài xin đợi một vài giây phút như để suy nghĩ về điều họ yêu cầu. Nhưng thay vào đó, ngài đã tự ý nhảy vào lửa và được phúc tử đạo.

    Có nhiều nhà thờ được dâng kính cho thánh nữ. Là quan thầy của các nha sĩ, Thánh Apollonia thường được cầu khẩn để chữa răng đau và các bệnh liên hệ đến răng. Ngài thường được vẽ với đôi kìm đang kẹp một cái răng hoặc một chiếc răng vàng đeo trên cổ. Thánh Augustine giải thích về sự tử đạo của ngài là do sự thúc giục đặc biệt của Chúa Thánh Thần, vì không ai được phép tự ý gây ra cái chết cho mình.



27/02/2024

   27 Tháng Hai
    Thánh Gabrien của Ðức Mẹ Sầu Bi (c. 1862)

    Phanxicô, sinh trưởng trong một gia đình có đến 12 người con, và ngài mồ côi mẹ khi mới bốn tuổi. Phanxicô được các cha dòng Tên dạy dỗ, và sau hai lần thoát khỏi bệnh nặng, anh tin rằng Thiên Chúa kêu gọi anh vào đời sống tu trì. Tuy nhiên, ước ao gia nhập dòng Tên của anh bị từ chối, có lẽ vì tuổi còn nhỏ, lúc ấy anh chưa đến 17 tuổi. Sau cái chết của người chị vì bệnh dịch tả, quyết tâm đi tu của anh lại càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết, và anh được các cha dòng Passionist chấp nhận. Khi bắt đầu cuộc sống đệ tử, Phanxicô lấy tên là Gabrien của Ðức Mẹ Sầu Bi.

    Là một con người luôn luôn bình dị và vui tươi, không bao lâu Gabrien đã tập được cho mình một đức tính: trung thành trong mọi chuyện dù nhỏ bé. Anh khiến mọi người ngạc nhiên về tinh thần cầu nguyện của anh cũng như việc yêu thương người nghèo, quan tâm đến người khác, tuân giữ quy luật cách nghiêm nhặt và hãm mình phạt xác — luôn luôn tùy theo tôn ý của bề trên.

    Cha bề trên rất kỳ vọng nơi Gabrien khi anh đang chuẩn bị cho đời sống linh mục, nhưng chỉ sau bốn năm tu tập, các triệu chứng của bệnh lao bắt đầu xuất hiện. Luôn luôn vâng lời, anh kiên nhẫn chịu đựng sự đau đớn và những hạn chế mà cơn bệnh đòi hỏi, không muốn được lưu ý cách đặc biệt. Anh từ trần cách êm ái vào ngày 27 tháng Hai 1862, khi mới 24 tuổi, sau khi sống gương mẫu cho mọi người.

    Gabrien của Ðức Mẹ Sầu Bi được phong thánh năm 1920.



28/02/2024

Ngày 28 tháng 2   

Thánh Grêgôriô II
    (c. 731)

    Sinh ở Rôma, ngay từ khi còn trẻ Grêgôriô đã dính dáng đến công việc của Giáo Hội. Chính Thánh Giáo Hoàng Sergius I là người nhận thấy những đức tính cao quý nơi người trẻ tuổi này và đã tấn phong Grêgôriô làm trợ phó tế. Ngài phục vụ liên tiếp dưới bốn triều đại giáo hoàng với chức vụ thủ quỹ, và sau đó là quản thủ thư viện. Ngài được giao cho các nhiệm vụ quan trọng và tháp tùng Ðức Giáo Hoàng Constantine đến Constantinople để phản đối Hoàng Ðế Justinian II về các nghị định chống lại tây phương của Công Ðồng Trullan II (692). Sau khi Ðức Constantine từ trần, Grêgôriô được chọn làm giáo hoàng và được tấn phong năm 715.

    St. Gregory II Ðức Grêgôriô làm giáo hoàng trong 15 năm. Trong thời gian này, ngài tổ chức các thượng hội đồng để chấn chỉnh các nhũng lạm, ngăn chặn lạc giáo và cổ vũ tinh thần kỷ luật và luân lý. Ngài tái xây dựng một phần lớn các tường thành Rôma để bảo vệ thành phố này chống với các cuộc tấn công của quân Lombard. Ngài tái thiết nhiều nhà thờ, và đặc biệt rất quan tâm đến người đau yếu và người già. Ðan viện thật lớn gần nhà thờ Thánh Phaolô đã được tái thiết, cũng như tu viện của Monte Cassino mà quân Lombard đã phá hủy cách đó 150 năm. Ngài tấn phong Thánh Boniface và Thánh Corbinian làm giám mục để đi truyền giáo cho các sắc dân ở Ðức. Và cũng như Ðức Grêgôriô I, ngài biến dinh thự của gia đình ngài thành một đan viện.

    Chính trong những cuộc thương thuyết với Hoàng Ðế Lêô III mà người ta mới thấy sức mạnh tinh thần cũng như sự kiên nhẫn của Ðức Grêgôriô. Hoàng Ðế Lêô đòi phải tiêu hủy tất cả các ảnh tượng thánh, và trừng phạt những ai không tuân lệnh. Khi các giám mục không thuyết phục được hoàng đế về sự sai lầm của ông, họ thỉnh cầu đến giáo hoàng. Một đàng, Ðức Grêgôriô cố gắng thay đổi ý nghĩ của hoàng đế. Ðàng khác, ngài khuyên dân chúng trung thành với hoàng tử, luôn luôn khuyến khích các giám mục chống với tà thuyết.

    Ðức Grêgôriô II từ trần năm 731.

    Trích từ NguoiTinHuu.com

 

Gloria Exelsis Deo, Mùa Giáng Sinh trong Vinh Danh Chúa

Mừng Chúa Giáng Sinh xin cho mỗi người chúng con biết đón nhận món quà Chúa ban đúng với ý nghĩa và thật trân trọng để khi Chúa Giáng Sinh đến vào đời sống chúng con cũng trở thành món quà ý nghĩa nhất cho mọi người.

 

Hạnh phúc Giáng Sinh thật tuyệt vời, niềm vui đã tràn ngập vì Thiên Chúa Tình Yêu đang ở giữa chúng ta.  Emmanuel, xin Ngài ngự trị trong cộng đoàn, gia đình, và ở trong mỗi chúng con.

 

Cảm tạ Thiên Chúa và các đóng góp công lao, tài khoàn cùa nhiều cá nhân, và đoàn thể đã vất vả chuẩn bị cho ngày đại lễ này trong giáo xứ.  Xin Chúa chúc lành và đền đắp bội hội những bàn tay góp sức thực hiện cho buổi Lễ Vọng Giáng Sinh thật tuyệt vời.

 

GLORIA EXELSIS DEO !!!

CHA QUẢN NHIỆM CHÀO MỬNG TỚI CỘNG ĐOÀN

CHỦ TỊCH CỘNG ĐOÀN  TRONG  LỜI TRI ÂN VÀ CẢM TẠ tât cà mọi đóng góp và công lao phục vụ của tất cà mọi nguời, cá nhân cũng như đoàn thể  

 

Chúa Nhật Tuần V TN-Năm B

Lời Chúa

04/02/2024
Chúa Nhật Tuần V Mùa Thường Niên Năm B

Bài Ðọc I: G 7, 1-4. 6-7

“Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối”.

Trích sách Gióp.

Bấy giờ Gióp nói rằng: “Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất, ngày của họ giống như ngày của người làm công. Cũng như người nô lệ khát khao bóng mát, như người làm công ước mong lãnh tiền công thế nào, thì tôi cũng có những tháng nhàn rỗi, có những đêm người ta bắt tôi làm việc cực nhọc. Nếu tôi đi ngủ, thì tôi lại nói: “Chừng nào tôi mới thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối”. Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc”.

Ðó là lời Chúa

Ðáp Ca: Tv 146, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Hãy chúc tụng Chúa, Ðấng cứu chữa những kẻ giập nát tâm can

Hoặc đọc: Alleluia.

1. Hãy ngợi khen Chúa, vì Người hảo tâm; hãy ca mừng Thiên Chúa chúng ta, vì Người êm ái, thực Người rất đáng ngợi khen. Chúa xây dựng lại Giêrusalem, tập họp con cái Israel phân tán.

2. Chính Người chữa những kẻ giập nát tâm can, và băng bó vết thương của lòng họ. Người ấn định con số các ngôi sao, và gọi đích danh từng ngôi một.

3. Chúa chúng ta cao cả và mãnh liệt quyền năng, sự khôn ngoan của Người thực là vô lượng. Chúa nâng cao những kẻ khiêm cung, Người đè bẹp đứa ác nhân xuống tận đất.

Bài Ðọc II: 1 Cr 9, 16-19. 22-23

“Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, nếu tôi rao giảng Tin Mừng, thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi. Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giả như nếu tôi tự ý đảm nhận việc ấy, thì tôi có công; nhưng nếu tôi bị ép buộc, thì tôi phải làm trọn nghĩa vụ đã giao phó cho tôi. Vậy thì phần thưởng của tôi ở đâu? Khi rao giảng Tin Mừng, tôi đem Tin Mừng biếu không, tôi không dùng quyền mà Tin Mừng dành cho tôi. Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau, để thu hút người yếu đau. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng.

Ðó là lời Chúa

Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Chiên của Ta nghe biết tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta”. – Alleluia.

Phúc Âm: Mc 1, 29-39

“Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các ngài.

Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.

Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: “Mọi người đều đi tìm Thầy”. Nhưng Người đáp: “Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa”. Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.



Suy Niệm Lời Chúa

04/02/2024

CHÚA NHẬT TUẦN 5 TN – B
Mc 1,29-39

CẦU NGUYỆN LÀ LẼ SỐNG

Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (Mc 1,35)

Suy niệm: Cuộc sống của Chúa Giê-su luôn gắn kết với Chúa Cha. Dù suốt ngày bận rộn với việc rao giảng, chữa lành và trừ quỷ, Chúa Giê-su vẫn dành ưu tiên cho việc cầu nguyện: Ngài dành những giây phút đầu tiên trong ngày: “sáng sớm, lúc trời còn tối mịt”,“một nơi hoang vắng”, nơi chỉ có một mình Ngài với Chúa Cha. Công việc khởi đầu ngày sống của Ngài là tìm thánh ý Chúa Cha. Chúa Giê-su kết hợp tài tình giữa việc chiêm niệm và hoạt động. Ngài coi cầu nguyện việc hết sức cần thiết, là lẽ sống còn của mình: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34).

Mời Bạn: Chúa Giê-su nêu gương cho chúng ta về một cuộc sống hài hòa giữa hoạt động và cầu nguyện. Ngài cầu nguyện để biết Chúa Cha muốn Ngài làm gì và thực thi qua đời sống yêu thương phục vụ mọi người cách cụ thể. Chúng ta cũng ưu tiên việc cầu nguyện để nhận biết thánh ý Chúa, hầu sống tốt các mối tương quan, quân bình trong cuộc sống và sáng suốt trong các chọn lựa quyết định của mình.

Sống Lời Chúa: Noi gương Chúa, bạn dành những phút đầu tiên trong ngày để cầu nguyện với Ngài.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã cầu nguyện để nhận biết và chu toàn Thánh ý Chúa Cha qua việc hiến thân chịu chết trên thập giá. Xin cho chúng con chuyên cần cầu nguyện để nhận ra Chúa muốn gì trên cuộc đời chúng con, hầu chúng con tham gia tích cực để mở mang Nước Chúa, sống tốt tương quan với Chúa, với tha nhân và chính mình ngay tại nơi chúng con hiện diện. Amen.

Trích từ Thánhlinh.net

Thánh Ca qua Thánh Lễ Vọng Giáng Sinh do Ca Đoàn Hương Việt

Ca Đoàn Huơng Việt sau nhiều tháng, và tuần lễ tập luyện đã mang lại những bài thánh ca tuyệt vời cho cộng đoàn dân Chúa.

Cảm tạ Thiên Chúa và sự đóng góp công lao tập luyên của ca đoàn cho ngày đại lễ này trong giáo xứ.  Xin Chúa chúc lành và đền đắp bội hội cho những giọng ca đã đóng góp tuyệt vời cho buổi Lễ Vọng Giáng Sinh.

GLORIA EXELSIS DEO !!!

 

Xin cộng doàn và toàn thể dân mạng thuởng thức sau dây những bài Thánh Ca Giáng Sinh mừng Chúa ra đời,  truớc Thánh Lễ vả phụng vụ trong Thánh Lễ.

 

 

 

BTV cùng LM Micae Phạm Quang Hồng Vui Tiệc Hồng Ân cuối Năm

Cha LM Micae Phạm Q Hồng từ Úc Đaị Lợi trong chuyến tông du giảng thuyết tại Nam Cali, đã dành thời gian cho CĐ St Boniface tại Anaheim một buổi tĩnh tâm giảng thuyết cho cộng đoàn dân Chúa nơi đây.

Những bài giảng của Cha rất thân thuộc trên cộng dồng mạng Youtube, và Ngài cũng gặp nhiều Youtube “fan” tại giáo xứ này.

 

Sau giờ thuyết giảng, Ngài đồng dâng Thánh Lễ với cộng đồng giáo dân và ở lại chung vui và dùng bữa tiệc nhỏ, ấm cúng và vui nhộn với hội đồng giáo xứ và BTV.

                                 CA ĐOÀN HUƠNG VIỆT 

                            BAN THUỜNG VỤ CỘNG ĐOÀN